dũng sỹ chép còm

chương 1
Ở một làng nọ thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có cái ao tục gọi Ao Cây Sung. Ao nằm ngay đầu làng, một mặt dựa vào lũy tre, ba mặt kia tiếp giáp cánh đồng rộng thẳng cánh cò bay. Trên bờ ao, phía mặt trời lặn, mọc nghiêng một cây sung già, thân sần sùi lồi lõm. Như người già lưng mỗi năm một còng, gốc sung già cứ xiêu mãi cho đến lúc cành lá gần chấm mặt ao. Chắc vì cây sung già này mà ao có tên Cây Sung. Ao vốn có cửa thông thủy với những kênh rạch lớn nhỏ chạy ngang dọc trên khắp cánh đồng. Quanh bờ lắt lẻo mấy chiếc cầu tre, ván lát phong rêu. Dân làng thường ra cầu ao vo gạo rửa rau, gánh nước. Các chú bé thích đứng trên cầu ao nhảy ùm ùm xuống nước hụp lặn, lội bơi... làm ván cọc cầu kêu kót két.
Ngày ấy... trước khi xảy ra chuyện dân gian truyền miệng sau đây, nước Ao Cây Sung bốn mùa trong mát. Mặt ao lúc nào cũng nhộn nhịp tiếng động của cuộc sống lao động thuần phác ở nơi thôn ấp; tiếng vỗ rá bồm bộp, tiếng chiếu đập xuống nước, tiếng chao thùng khỏa chân tiếng reo đùa trửng giỡn của con nít... Những đêm trăng sáng trai gái làng kéo nhau ra quanh bờ ao, chuyện trò ngắm trăng... Mùa sung chín, chim chóc bay đến ríu rít suốt ngày trên cành na, cành mận , nung núc trái chín màu đuôi cá rô cờ... Sung chín rơi lõm bõm xuống nước, cá lớn cá nhỏ nhào lại tranh nhau đớp.
Dân cư ngụ Ao Cây Sung ngoài họ hàng nhà cá còn có họ hàng nhà Tôm, Tép Lươn, Ốc, Cua, Hến... Chung sống với nhau lâu đời nên dân ao quen tên thuộc mặt hầu hết bà con lối xóm. Họ hay nhắc đến chị Tám đầu quấn khăn rằn như... vảy chị Cá Thia mốc, má Năm mồm móm như mồm mấy bà cá Thiểu, má Bảy miệng lúc nào cũng nhóp nhép nhai trầu như miệng mấy bà cá Mương lúc nổi lên mặt nước hóng mồi... Rồi chị Sáu Thìn mắt bị lông quặm, đỏ nòng nọc như mắt mấy chị Diếc, chị Chày, cô Nguyệt lưng thon mình Chắm, bác Ba Xung ít khi thấy mở miệng như mấy bác Ốc Bươu, Ốc Vặn, thằng Nạy thằng Đực bơi lặn giỏi không thua gì bọn Xin Xít, Rô cờ...
Mỗi lần cầu ao có tiếng khua động là lũ cá bốn phía nháo nhào xô đến. Các bé Mài Mại, Cân Cấn, Hạt Bòng, Rô Don... nhảy vào cả rổ rau, rá gạo mà đớp mồi. Các chị các má phải kêu lên:
- Cái tụi cá con này chúng dạn mới ghê chứ!
Mỗi lần thấy các cô gái lội xuống ao vớt bèo, tụi cua mới lột vỏ từ các hang, ngách mò ra, nghịch ngợm đưa càng cẹp ngón chân, bắp chân các cô, cẹpp nhẹ thôi như kiểu chó con, mèo con cắn đùa. Các cô kêu dãy nảy và cười rúc ra rúc rích...
Ngày ấy... về mùa mưa, nước ao theo nước kênh mương dâng cao, mấp mé tràn bờ. Họ hàng nhà Mương, nhà Chày tha hồ họp đàn nổi lên mặt ao nhóp nhép hớp mồi. Các bé Cân Cấn, Đòng Đong, Rô Don... tha hồ tung tăng bơi lượn, chơi đuổi bắt, trốn tìm, hoặc chia làm hai phe đánh trận giả. Các cô Trôi dậy thì đua nhau đánh đuôi khoe dáng, các chú Chép tơ thi nhau tung cao mình khỏi mặt nước khoe sức. Mùa hè mưa rào, các chị Chép, chị Chuối đến kỳ sinh nở tha hồ vật đẻ ầm ĩ suốt đêm trong các lùm rong đuôi chó, rong liễu sát ngay bờ...
Ngày ấy... theo lời các cụ già, cuộc sống Ao Cây Sung yên ả, thanh bình như bài thơ kể chuyện ao hồ, đồng nội...
Nhưng rồi đến một hôm, có một bọn người “áo quần rằn ri”, “mặt mày dữ tợn” mà bà con lối xóm gọi chung một tiếng là quân Mỹ ngụy đã kéo đến chiếm cái làng có Ao Cây Sung, cùng với bao nhiêu làng thôn xa gần khác. Thấy chúng mặc thứ áo quần màu xanh, loang lổ giống lông chim Bói cá - bà con dân Ao Cây Sung mới gọi chúng là bầy “Bói cá rằn ri”.
Mới đầu không ai hiểu có chuyện gì xảy ra với dân làng nhưng bà con Ao Cây Sung cứ nơm nớp lo sợ không dám nổi lên mặt nước thả tăm, hớp mồi như mọi bữa. Họ lặn hết xuống đáy ao, nép bụng sát bùn hoặc chúi đầu vào các lùm rong, các bè cỏ nước. Chỉ khi nào ngạt thở quá, không nhịn nổi, họ mới ngoi lên mặt nước, hớp vội một hớp không khí, rồi lại lặn xuống ngay.
Một buổi chiều tà, có mấy anh chị chim chào mào từ đâu bay đến ăn sung chín. Một vài cụ cá già đánh bạo ngoi lên mặt nước hỏi chuyện đàn chim. Một anh chào mào cụt đuôi vừa mổ quả sung vừa tíu tít kể:
- Suốt mấy ngày qua tụi “Bói cá rằn ri” đã dùng roi, súng, lưỡi lê, lùa bắt dân làng phải rời khỏi nơi đẻ trứng ấp con. Chúng đưa họ đến một nơi rất xa, cạnh con đường lớn có nhiều xe chạy, mà chúng gọi là... là... cái gì ấy mình nhỉ? - Anh ngoái cái đầu có mào khá đẹp hỏi vợ.
- “Ấp chiến lược”... - chị chào mào đáp thay chồng. - Tôi đã được nhìn thấy cái ấp chiến lược “kinh khủng” ấy rồi. Chả là tôi phải bay ngang qua đó, đến một vườn mãng cầu xiêm, kiếm mồi cho sắp nhỏ. Nó giống hệt cái ao lớn trên cạn. Bờ ao là hàng rào lông nhím, cửa ao có thằng lính cầm súng gác. Bà con dân làng sống trong đó chen chúc như một đàn cá bị mắc cạn.
- Thế còn cái làng xinh đẹp này? - Bác Chắm đen kinh ngạc hỏi.
- Nghe đâu chúng sẽ biến thành một cái tổ thật to chị chào mào trả lời.
- Vậy mà dân làng đành chịu à? - Bác Ngão móm tức giận kêu lên.
- Dân làng nhiều người cũng gan liều chống lại, không chịu đi. - Chị chào mào thở dài nói - Nhưng chúng đông quá, lại có súng, có lưỡi lê. Chúng đã bắn, đã đâm chết khá nhiều người. Còn hầu hết bị chúng đánh bằng gậy gộc, báng súng. Không biết bao nhiêu máu đã tưới xuống đất làng.
Rạng sáng hôm sau, mặt đất và mặt ao bỗng rung rinh chuyển động như sắp rạn vỡ làm nhiều mảnh. Từ phía làng dội tới tiếng ầm ầm, gầm rú, loảng xoảng kéo dài không dứt như tiếng sấm rền trước cơn giông lớn. Dân ao nghe thấy sởn vẩy, dựng vây cuống cuồng chui xuống bùn, rúc vào tận đáy hang, đáy ngách. Nhiều bà cá, chị cá hoảng sợ quá, mang bạc trắng phếu. Bác Chắm cỏ có tiếng liều lĩnh nhất ngoi lên mặt ao, nghiêng ngó xem xét, Bác thấy từ đầu làng đến cuối làng bụi bốc mù trời như khói một đám cháy lớn. Cây cối, tre pheo đổ la liệt như đang giữa tâm bão. Xóm làng trống huyếch hoác như đáy ao bị quét sạch rong. Chim chóc từ phía làng bay tán loạn ra cánh đồng kêu la như vỡ tổ.
Bác Chắm cố hỏi với theo một cặp vợ chồng chim cườm bay đáp qua ao:
- Trên đó đang xảy ra chuyện gì vậy?
dạ thưa bác - Tụi Bói cá rằn ri đang lăn những hòn núi sắt biết gầm thét, nhổ bật hết cây cối, nghiền nát hết nhà cửa, san bằng hết vườn tược để xây hang ổ... - Anh chim cườm hấp tấp trả lời, rồi sải cánh đuổi theo vợ.
Khi biết rõ công chuyện xảy ra trên làng, dân ao càng nơm nớp lo sợ hơn, Mấy cụ cá, cụ ốc, cụ trai, cố tìm cách làm yên lòng con cháu “Có thể tụi Bói cá rằn ri chỉ tàn hại dân làng, còn đối với bà con dân ao ta, chúng chẳng thèm đụng đến” - Các cụ nói vậy và bà con tin lời các cụ.
Nhưng chỉ sau một con trăng, dân cư Ao Cây Sung hiểu ngay ra họ đã lầm!
Chỉ sau một con trăng, xóm làng trở thành bình địa trống trơn. Không còn bóng người dân nào trong làng. Tưởng như chưa từng bao giờ có một cái làng nào ở đây cả. Trên những nền nhà vườn tược xanh tươi cũ, bọn Bói cá rằn ri đào hang xây tổ với đủ các hình thù kỳ dị mà chúng gọi là lô cốt, tháp canh, ụ súng. Hang tổ chúng mọc lên nhanh và nhiều như nấm độc sau những ngày mưa dai dẳng. Thay cho những lớp hàng rào so đũa, dâm bụt, tre tàu... là những lớp rào kẽm gai bùng nhùng rải kín quanh làng... Dây kẽm gai rải vòng cả trên ba mặt bờ ao nối liền với cánh đồng, in bóng xuống ao trông ghê rợn như những dàng lưỡi câu cá. Mấy hôm đầu dân ao không ai dám bơi lại gần mép nước, họ sợ bóng những cây gai chọc mù mắt.
Nhưng tai họa thật sự bắt đầu với dân ao là cái hôm tên Bói cá rằn ri đầu đàn sai bọn tay chân dùng xẻng cuốc lấp kín cửa ao, biến ao thông nước thành ao tù. Hắn trỏ tay xuống ao oang oang ra lệnh:
- Lấp thật kín vào! Cái ao này ngó bộn cá đây. Không được để cho một con tép nào lọt ra kênh mương nghen!
Hắn tặc lưỡi, chép miệng, nước miếng nhểu ra hai bên mép, kể với bọn tay chân, các món nhậu làm bằng thịt của họ hàng nhà cá:
- Cá lóc bọc bẹ chuối nướng, gỡ thịt chấm nước mắm gừng, nhậu hết chê! Cá gáy bự, loại cắt ba cắt tư, để nguyên cả con nấu cháo, làm món giã rượu thì tuyệt cú mèo!
Họ hàng nhà cá nằm nép dưới đáy ao, lắng nghe trên bờ trò chuyện. Mặc dầu cá là loài có máu lạnh nhưng tất cả đều thấy máu trong huyết quản mình reo sôi vì căm giận.
Bọn Bói cá rằn ri sống ở đây, xa đường cái lớn, xa chợ búa, quán hàng, chúng buồn lắm. Chúng tìm đủ cách tiêu khiển giết thì giờ. Chúng nốc rượu như thùng thủng đáy, thứ rượu mạnh đến nỗi chai chúng súc xuống ao, nhiều cô cậu cá hớp phải, say bí tỉ, nôn thốc nôn tháo muốn lộn cả bong bóng ra ngoài.
Chúng bày trò cờ bạc, sát phạt nhau suốt ngày đêm, rồi gầm gừ xông vào nhau loạn xạ. Cờ bạc rượu chè chán chúng bắt đầu lần mò ra Ao Cây Sung, lấy tính mạng bà con dân ao làm trò giải trí.
Một buổi trưa, chúng đi càn quét, cướp bóc ở đâu về, kéo nhau ra ao giặt giũ, rửa ráy. Chúng cọ rửa những lưỡi dao găm bết máu, vò giũ nhưng bộ quần áo rằn ri khoang đốm, có những chiếc túi to bằng cái lờ, cái nơm. Chúng lộn túi ra, túi nào cũng đầy cứt gà, lông vịt, lầy nhầy lòng trứng vỡ.
Nghe tiếng khua động, các bé mài mại, cân cấn, đòng đong... quen như hồi còn dân làng ra rửa rau, vo gạo, nhao nhao bơi đến. Một thằng Bói cá rằn ri mép vểnh ngược như râu trê gọi to:
- Nhiều cá quá chúng mày ơi, ném cho tao khẩu súng, mau lên! - Hắn cầm khẩu súng lên đạn: rốp! Rồi chúc mũi súng rê rê gần sát mặt nước, theo đàn cá con đang bơi lượn tìm mồi. Hắn siết cò súng. Một tiếng nổ rung rinh mặt ao. Sức ép của phát đạn làm hơn hai chục bé cá bong bóng bị vỡ tan, chết nổi lên mặt nước, bập bềnh như những cái phao. Bọn đứng xem thích thú vỗ đùi, dậm chân, cười; khoái chí, chúng nói với nhau:
- Sức ép của loại đạn Mỹ này khiếp thật!
Cả bọn liền đua nhau bắt chước, bắn xuống ao mấy chục phát liền. Nhưng các bé cá lúc này sợ hãi, bơi toán loạn ra xa, lặn biến xuống đáy ao nên chúng chỉ giết thêm được một hai bé.
Hình như việc giết chóc tàn bạo, vô nghĩa này làm cho bọn Bói cá rằn ri thích thú lắm. Sau hôm đó, ngày nào chúng cũng kéo ra ao chơi trò bắn cá. Và từ trò chơi chúng biến thành cuộc cờ bạc, sát phạt. Chúng đặt tiền cược ngay trên bờ ao, mỗi thằng bắn một phát. Thằng nào bắn chết được nhiều cá hơn sẽ được tất cả tiền. Để được bạc, chúng nghĩ đủ mưu mẹo đánh lừa các bé cá bơi đến gần họng súng. Chúng quẳng xuống ao nào cơm, nào bánh vụn. Có thằng còn công phu hơn, rang gạo bắp với bơ, tán nhỏ trộn với mẻ đất bột làm thính nhử.
Mặc cho cha mẹ, ông bà khuyên can, đe nẹt, các bé cá đói quá chẳng tưởng gì đến chết, thấy mồi ngon là nhao nhao bơi đến. Kết cục các bé cá bị sức ép của những viên đạn Mỹ làm vỡ tan bong bóng ngày càng nhiều. Nhìn các con cháu bé bỏng, dại dột, chết phơi bụng bập bềnh trên mặt nước nhiều bà con khóc rưng rức nói:
- Rồi chẳng bao lâu nữa cả cái Ao Cây Sung này sẽ chẳng còn lấy một đứa cá con!
Mấy chị Chày, chị Diếc, Chị Dưng... thấy các con cháu bị bọn Bói cá rằn ri giết để tiêu khiển thương khóc nhiều đến nỗi mắt hóa đỏ ngầu và không bao giờ còn trong lại được nữa. Cụ Ngão móm nhìn mắt các chị kêu to đau đớn:
- Ối chao! Mấy chị này không phải khóc ra nước mắt mà ra máu, trời đất ạ!
Một số bà con khác mắt cũng đỏ ngầu nhưng không phải vì khóc. Họ căm thù. Và họ nghĩ cách trả thù cho các bé. Một buổi trưa, bọn Bói cá rằn ri lại xách súng, bưng mồi thính nhử ra ao, bắn cá đánh cược. Một tên cao lớn, mặt rỗ, mồm rộng ngoác như cái hom giỏ mèo, quần xắn quá gối lội hẳn xuống nước để bắn cá. Hắn đang rê họng súng vào chỗ vừa ném thính nhử chờ các bé cá đến đông để bóp cò. Bất thần hắn kêu thét như bị ai cắt gân và đánh rơi khẩu súng xuống nước. Hắn hốt hoảng nhảy vọt lên bờ. Giữa bắp chân trái lờm xờm lông lá của hắn, quắp chặt một anh cua đá. Đôi càng lực lưỡng màu rêu đá với hai hàm răng trắng nhọn lởm chởm của anh cắn ngập vào thịt hắn khác nào hai gọng kìm. Anh cắn mạnh đến nỗi cặp mắt lòi hẳn ra ngoài. Và khi tên giết cá con bặm môi giựt anh ra, anh đã để lại trên bắp chân hắn cả đôi càng cắm ngập vào thịt. Hắn quật anh xuống đất, lấy gót chân sắt dẫm vào anh cho kỳ nát bét như bùn. Hắn phải vất vả lắm mới nạy được đôi càng anh ra khỏi bắp chân. Máu tóe ra từ những vết thương sâu hoắm, đỏ lòm cả bắp chân hắn.
Cung cách trả thù dữ dội và cái chết thành bùn của anh Cua đá làm bà con dân ao vừa kính phục vừa kinh ngạc.
Bà con gọi anh là Cua đá gốc sung, vì hang của anh ngay bên dưới gốc sung. Xưa nay anh có tiếng là chàng trai hiền lành, hiền đến thành tục ngữ:
Hiền như anh Cua đá gốc sung
Hung như bác Măng chột mắt
Thấy anh hiền quá, các bé cá Rô nghịch ngợm hễ trông thấy anh đâu là bơi xúm lại trêu chọc, chúng trèo lên mai anh nhong nhong làm ngựa. Chúng lấy đuôi ngoáy vào giữa càng anh cù cho anh nhột. Tha hồ các bé trêu chọc, anh chỉ cười nói:
- Khéo đấy các em ạ. Đuôi mà vướng vào răng anh rách ra thì anh chẳng có đuôi mà đền cho các bé đâu!
- Thế tại sao chúng em có đuôi? Mà đuôi dài đẹp thế này còn anh lại không có?
- Trước kia anh cũng có đuôi như các bé, mà những hai đuôi cơ! Nhưng anh đã tìm đến mụ phù thủy đổi hai cái đuôi lấy hai cái càng.
- Sao anh làm thế! Mà anh đổi lấy càng để làm gì?
Anh trả lời:
- Nếu không có càng thì lấy đâu ra chỗ để các bé ngoáy đuôi mà cù cho anh nhột!
Các bé Rô cờ nghe anh trả lời, cứ húc đầu vào lưng nhau cười rúc ra rúc rích.
Sau khi anh bị dẫm nát thành bùn, nhiều bà con sực nhớ lại, trước đó một hôm, anh được tin mấy bé cá Rô cờ thường cưỡi lên mai anh nhong nhong làm ngựa vừa bị bọn Bói cá rằn ri bắn chết. Trưa đó, anh cắm ngập đôi càng xuống bùn, đứng sững như hóa đá. Anh ứa nước mắt nói:
- Các bé ơi, anh thề sẽ lấy máu chúng rửa thù cho các bé!
Anh Cua đá đã nói và làm như thế đó!
Sau ngày bị bọn Bói cá rằn ri lấp chặt cửa ao, nước trong ao cứ mỗi ngày một cạn dần. Bờ ao rải dây thép gai cứ cao mãi lên che khuất dần chân trời và những áng mây bổi buổi sáng. Nước ao xưa trong mát như buổi sáng thu đẹp giời nay ngả sang màu rêu. Mặt ao nổi đầy váng bọt màu han đồng. Qua lớp váng bọt này, ánh trăng những đêm đẹp trời nhất cũng ngả sang màu bụng cá chết. Những hôm động trời, khí độc dưới đáy ao bốc lên mờ mịt. Những bé cá yếu đuối, họ hàng nhà tôm tép, bị khí độc làm cho ngạt thở, nổi hết lên mặt nước mà chết.
Một lần sau trận mưa to, họ hàng nhà mương, ngão, chày... nổi lên mặt ao hớp màu mưa trôi xuống. Lâu lắm mới được cơn mưa to, cá lớn bé, già trẻ đua nhau hớp màu căng cả bụng. Nhưng chỉ một lúc sau, tất cả bỗng quay lộn trong nước như hóa dại. Tiếng kêu la ran ran nổi lên khắp bốn phía ao:
- Úi chao, ruột gan tôi sau đau quá vậy!
- Tôi đứt hết ruột gan rồi bà con ơi!
Nhiều anh chị kêu chưa dứt câu đã lật ngửa mình phơi bụng ngo ngoe một lúc rồi tắt thở. Thảm nhất là các bé, mắt lồi ra vì đau đớn, khóc không khóc được, kêu không kêu được, chỉ ngáp vài cái rồi chết.
Các cụ cá già nhìn thấy cảnh tượng này thất sắc kêu to:
- Bị - ngộ - độc - rồi!
Cá thường ngộ độc lúc bị thuốc, chất độc thuốc cá thường chứa trong một số quả, vỏ và rễ cây rượu, lá cây cọi... Nhưng bà con chưa từng thấy một loại chất độc nào lại giết họ hàng mình nhanh chóng và khủng khiếp đến như thế!
Chiều hôm sau các cụ hỏi chuyện mấy chị chim én chao mồi trên mặt ao. Các chị cho biết, chất độc ghê rợn này là do một tụi Bói cá rằn ri hung ác nhất rải từ trên giời xuống. Chúng rải để tàn phá cây cối, hoa màu, giết người và gia súc những thôn xóm nổi dậy chống lại chúng. Chất độc bay theo gió vương vãi quanh bờ ao. Trận mưa làm trôi xuống ao và bà con đã vô tình hớp phải. Cũng may chất độc vương vãi không nhiều. Nếu nhiều hơn chắc chắn dân ao không một ai sống sót. Không thể chịu dựng mãi cuộc sống đọa đày tù hãm, một số trai tráng Ao Cây Sung như chuối, chép, măng, chắm, sộp... liên tiếp tìm cách vượt ao. Họ lợi dụng những đêm tối trời, mưa gió, dùng hết sức bình sinh nhảy phóng lên bờ, hòng thoát khỏi ao. Nhưng hầu hết các cuộc vượt ao, đơn độc đều bị thất bại cay đắng. Một số chỉ nhảy được đến lưng chừng bờ, đầu đập phải thành đất cứng văng nhào trở xuống ao. Chú thì đầu toạc, mũi dập, chú thì miệng vêu, răng gãy. Một số khác nhảy giỏi hơn lên được bờ nhưng lại bị mắc kẹt vào giữa những lớp dây thép gai bùng nhùng, khác nào chui vào hom đó, hom lờ. Sáng ra tụi Bói cá đi vòng quanh ao nhìn thấy, xách mang họ về đánh vẩy, mổ bụng rồi. Những anh may mắn hơn, chúng không nhìn thấy, thì nằm cho đến lúc chết thối rữa, kiến tha hết thịt để lại những bộ xương trắng hếu, che lấp dưới các búi cỏ dại.
Trong số trai tráng vượt ao kiên trì và gan liều nhất có anh Sộp bẹt đầu. Số lần anh vượt ao thất bại nhiều không ai nhớ xuể. Đầu anh vốn tròn trịa như các anh sộp khác nhưng vì va phải thành đất cứng bờ ao nhiều quá hóa thành bẹt dí. Do đó mà anh có tên Sộp bẹt đầu. Cái mồm rộng ngoác của anh gãy gần hết răng và khắp mình anh vẩy tróc từng mảng lớn. Sau mỗi lần vượt ao thất bại, anh lại lao vào tập luyện để vượt lần khác. Anh tập nhảy cao, tập trườn trên cạn, tập nhịn đói, nhịn thở, tập nhìn sao để tìm phương hướng trong đêm tối. Nhờ dày công luyện tập mà nhiều lần anh thoát chết, có khi cái chết chỉ còn cách cái vẩy. Bà con dân ao nhìn cái đầu bẹp dí, gương mặt sứt sẹo, tấm thân đầy thương tật của anh đều phải nghiêng mình kính nể.
Lần vượt ao cuối cùng của anh vào một buổi sáng tinh mơ. Từ đám lục bình giữa ao, anh bơi như xé nước lấy đà, rồi phóng vút lên bờ như một vên đạn súng cầu vồng. Lần đó có lẽ anh sẽ thành công nếu lúc rơi xuống đầu không xóc phải cái cọc thép nhọn đóng chênh chếch chăng dây thép gai phía bên kia bờ. Anh phóng mạnh đến nỗi cái cọc thép nhọn xuyên suốt từ miệng đến bụng anh. Thân hình anh thẳng đơ như bị xiên để nướng. Dưới ao nhìn lên, bà con thấy cái đuôi màu chì và rách bươm của anh chĩa thẳng lên bầu trời vẫy vẫy, ai cũng thương xót.
Kể từ ngày Ao Cây Sung biến thành ao tù nhiều năm tháng đã trôi qua. Hoa súng trong ao nhiều lần nở và nhiều lần tàn, Dây thép gai giăng quanh ao đã rỉ vàng, rỉ đen, Nhiều thế hệ cá, cua được sinh ra và lớn lên trong bầu nước tù hãm đầy tai họa chết chóc. Hình ảnh có một thời nước ao trong mát như buổi sáng mùa thu đẹp trời đã trở lên xa vời, huyền hoặc... Chuyện về các anh Cua đá gốc sung, Ngạnh lầm lì, Sộp bẹt đầu... đã nhuốm màu truyền thuyết. Nhưng có điều lạ lùng là lòng khao khát một cuộc sống trong sạch, tự do vẫn không ngừng sôi sục trong tim các thế hệ sinh sau đẻ muộn. Những tấm gương nghĩa liệt của các bậc cha anh trong việc báo thù rửa hận, trong các lần vượt ao thất bại, vẫn không một chút phai mờ trong trí nhớ lớp lớp cháu con. Nó như lời kêu gọi thống thiết của những ước mơ chưa thực hiện được, vang vọng không ngừng trong mỗi ngấn nước, cọng rong, trong mỗi lá cỏ, rễ bèo... Lời kêu gọi được cụ Nheo mù tạc khắc thành thơ lại càng vang vọng mãnh liệt hơn.
Và lớp lớp anh hùng, dũng sỹ mới của Ao Cây Sung lại xuất hiện. Trong số những trang anh hùng dũng sỹ này có chú Chép còm con trai út chị Chép vây hồng.
Chị Chép vây hồng nổi tiếng khắp Ao Cây Sung vì sắc đẹp và tính đoan trang hiền thục. Các chị chép khác sinh ra và lớn lên trong cảnh tù hãm, nước đục bùn rêu nên chị nào thân hình cũng to bè bè, ngắn cũn cỡn, vây vẩy xám nhờ màu bùn rêu. Riêng chị Chép vây hồng thân dài thon thả, vẩy trắng ánh bạc, vây và đuôi màu cánh sen. Cặp mắt chị màu ngọc lam, viền quanh một vòng trắng khảm những mảnh bụi vàng. Sắc đẹp chị thừa hưởng từ mẹ. Nghe đâu mẹ chị là dòng chép lai anh vũ, trước kia sống ở một dòng sông lớn. Một năm lụt to bà theo con nước bơi lạc vào Ao Cây Sung. Các bậc trưởng lão của ao như Nheo mù, Trê cọc, Ngão móm, Ốc bươu, Vòm vọp... kể lại rằng: Hôm bà bơi lạc vào ao bà con kéo đến thăm hỏi rất đông. Họ khẩn thiết mời bà ở lại, con nước đã rút cạn, ra đi lúc này là vô cùng nguy hiểm. Họ mời bà ở lại, còn một lẽ nữa mà không ai nói ra: Bà đẹp quá! Nhìn bà, các cụ xưa nay có tiếng là sống kín đáo như Ốc bươu, Ốc vặn, cụ Hến, cụ Trai... đều ngẩn ngơ, ngơ ngẩn cả ra. Có cụ mải há miệng ngắm bà lâu quá, suýt nữa thì không ngậm lại được.
Bà vừa sụt sùi khóc vừa kể cho họ nghe về dòng sông quê hương. Nghe bà kể, các cụ mới nhận ra trong đôi mắt màu ngọc lam của bà thấp thoáng hình ảnh những con sóng to những bãi bờ bát ngát ven sông. Riêng cụ cá Măng quả quyết rằng cụ còn nhìn thấy một cánh buồm no gió màu cánh cò, lướt trôi đung đưa trong đáy mắt bà...
Cửa ao bị lấp ít lâu thì bà chuyển bụng đau đẻ. Đó là một buổi sáng mùa xuân, sau cơn giông nhẹ đầu mùa. Bà bơi quanh quẩn tìm kiếm mãi mới chịu vật đẻ trong đám rễ cỏ dừa sạch gần sát bờ. Thật không may, một tên Bói cá cầm chĩa năm răng, ngồi phục sẵn trên bờ từ lúc nào không hay. Bà mới vật đẻ được một phần ba bọng trứng, hắn vụt đứng dậy cầm chĩa lao tới. Bà con dưới ao dựng hết cả vây bụng, nhìn thấy bà oằn oại đau đớn giữa năm lưỡi chĩa sáng lóa ngạnh thép, xuyên suốt qua tấm thân ánh bạc của bà. Cái đuôi màu cánh sen rung lên từng chập trước giây phút hấp hối. Trứng trào ra bám vàng cả các đầu ngạnh chĩa.
Theo lời các cụ, chị Chép vây hồng giống mẹ như hai chị em sinh đôi, giống từ cặp mắt cái đuôi giống đi. Bọn cá trẻ trong ao thường hay tìm gặp chị hỏi chuyện loăng quăng cốt để nhìn vào cặp mắt màu ngọc lam của chị. Chúng hy vọng được thấy hình dáng cánh buồm no gió màu cánh cò, lướt sóng trong mắt bà mẹ lai Anh Vũ của chị còn sót lại và lướt trôi trong mắt chị... Chúng cãi nhau loạn xạ, đứa bảo có, đứa bảo không. Nhiều đứa cả quyết là có nhìn thấy, nhưng cánh buồm xưa đã trôi xa lắm rồi, nên trông bé như một vệt lông ngỗng tận cuối chân trời.
Nhưng dù nhìn thấy hay không, hình ảnh cánh buồm no gió lướt trôi trên những con sóng to của một dòng sông lớn, vẫn làm bồi hồi xao xuyến biết bao trái tim trai trẻ của Ao Cây Sung.
Chị Chép vây hồng căng bụng trứng vào mùa xuân năm đó. Một đàn chép con ra đời. Khi các con bằng cái lá chanh, chị cho chúng đi mỗi đứa một ngả, tự kiếm lấy ăn theo tục lệ lâu đời của họ hàng nhà chép. Riêng đứa con trai nở sau cùng, bé nhỏ gầy còm hơn hết, chị giữ lại sống chung với chị thêm ít lâu cho cứng cáp hơn. Tại nó bé nhỏ nên chị thương nó nhất đàn, chị thường gọi nó bằng cái tên âu yếm: Chép còm.
Chép còm lớn khá chậm. Lúc các anh các chị được bà con gọi là chép tai trâu, Chép còm mới được gọi là “chép lá chanh”. Tính tình chú cũng khác các anh chị. Chú ít nói, ít ham đùa nghịch hay nghĩ ngợi và rất tò mò. Cái gì cũng muốn hiểu, muốn biết. Thấy việc lạ, chú cứ hỏi mẹ hoài cho đến lúc kỳ hiểu mới thôi, mẹ chú đã lựa lời giảng giải cho chú hiểu cuộc sống khốn cùng của ao quê và tình cảnh thảm thương không lối thoát của bà con dân ao.
Ở Ao Cây Sung có có nhiều cụ cá ông, cá bà kể chuyện rất tuyệt. Và các bà, các cụ rất thích kể chuyện cho Chép còm nghe. Nhiều lần câu chuyện của họ làm cho đôi mắt màu ngọc lam của Chép còm rướm lệ. Còn có sự thưởng công nào xứng đáng hơn cho người kể chuyện bằng những giọt lệ trong ngầng rướm từ đôi mắt trẻ thơ? Có thể nói, Chép còm đã được mẹ và bà con dân ao nuôi lớn bằng những sự tích hào hùng bi tráng đã từng xảy ra tại ao quê.
Nhiều đêm hai mẹ con dựa lưng vào đám rong sát đáy ao, Chép còm quạt mạnh vây hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con không có ngạnh như anh Ngạnh lầm lì, cũng không có càng như Cua đá, con biết lấy gì để đánh lại tụi Bói cá rằn ri hở mẹ?
Không thấy mẹ trả lời. Chép còm nói thêm:
- Mà nhảy phóng qua ao để thoát thân lấy một mình như mấy anh thì con chẳng muốn.
Chị Chép vây hồng đưa tay vuốt ve lưng con thay cho câu trả lời. Thật ra chị cũng không biết trả lời thế nào.
Trong số các câu chuyện cổ tích được nghe mẹ và các cụ kể. Chép còm thích nhất là chuyện “cá chép hóa rồng”. Chú nghe đến thuộc lòng nhưng lần nào cũng đòi mẹ kể lại. Chú thường hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, Rồng giống con gì hả mẹ?
- Rồng có vẩy như cá, có sừng như tê giác, có chân như người, ngón chân có vuốt sắc như ngạnh thép, lại biết bay như chim.
- Rồng có ích không mẹ?
- Ngay cả loài người cũng kính trọng rồng.
- Rồng có khỏe không mẹ?
- Rồng phun ra lửa, thở ra khói, đủ sức đánh chết hết các loài ác thú hung dữ nhất.
- Có đánh chết được tụi Bói cá rằn ri không mẹ?
- Rồng hay cứu giúp những ai bị đày đọa khổ cực và đem lại tươi vui, hạnh phúc cho những ai đau đớn, khốn cùng...
- Thế muốn hóa Rồng thì phải làm gì hả mẹ?
- Phải tu luyện... phải dấn thân vào những việc nghĩa, dù phải bơi lặn vào sông khó biển nguy... nhưng mẹ cũng chỉ được nghe các cụ kể lại vậy thôi, chứ biết rõ làm sao được.
- Thế con có hóa Rồng được không mẹ?
- Đó chỉ là tích chuyện đời xửa đời xưa, chứ hóa làm sao được.
- Tiếc quá - Chép còm hăm hở nói, - nếu mà hóa được thì dù phải tu luyện cực khổ đến đâu con cũng không sợ mẹ ạ. Con sẽ đánh nhau với tụi Bói cá rằn ri, đưa bà con thoát ra khỏi ao, rồi bơi đến dòng sông lớn...
Ngay lúc đó, như để chế diễu ước mơ viển vông của Chép còm, một con chim lông trắng kẻ sọc xám, từ giữa lưng trời bất thần đâm bổ xuống mặt ao theo chiều thẳng đứng. Tiếng một chị Mại bầu kêu thét lên:
- Cứu tôi với... bà con ơi...!
Đang từ mặt ao tiếng kêu thét vụt chới với giữa lưng trời. Chép còm nhìn lên thấy chị Mại bầu vùng vẫy tuyệt vọng giữa cái mỏ dài nhọn hoắt của con chim trắng vằn xám. Nó quắp chị ngang lưng, bay vút lên ngọn tre.
Những cảnh tượng như vậy diễn ra ngày càng nhiều ngay trước mắt chú. Nó giống như một thứ mật cá bị vỡ ra, pha đắng dần những ngày thơ ấu ngọt ngào của Chép còm. Lòng thương xót bà con, nỗi căm ghét, ghê tởm cuộc sống tù hãm, đọa đày một ngày một bén rễ, đâm chồi trong lòng chú và cứ lớn dần lên mãi... gương mặt niên thiếu của chú nhiều lúc đã hiện vẻ suy tư của những tâm hồn sớm nghĩ sớm đau...
Cũng giống như hầu hết dòng họ nhà Chép, Chép còm rất yêu trăng. Những đêm trăng sáng, Chép còm thường thức rất khuya, chú bơi tha thẩn trong các mảnh ao không bị bèo rong che khuất, mê mải ngắm vừng trăng khuyết đầy, in lồ lộ đáy nước. Vừng trăng trên trời sáng lấp lánh màu bạc chuốt, vừng trăng in đáy ao ngả màu rong liễu non. Chú quạt khẽ vây bơi về phía vừng trăng chập chờn lung linh, đớp nhẹ. Vừng trăng liền tan ra làm muôn nghìn mảnh. Nhưng chỉ trong chớp mắt các vụn trăng xao xuyến tự tìm đến với nhau, gắn lại vẹn nguyên như cũ và không hề có một vết nứt rạn nào. Trò chơi đớp trăng chú chơi mãi không biết chán. Trong những giây phút đó chú thấy lòng khuây nguôi, quên đi cuộc sống đắng cay tủi cực nơi ao tù. Gương mặt chú rạng rỡ trẻ thơ trở lại.
Nhưng một đêm, trăng rất sáng, mẹ bắt gặp chú đang mải mê chơi đớp trăng thì tỏ vẻ vô cùng hoảng sợ, tưởng như bắt gặp con đang dại dột chơi với lưỡi câu. Chị dặn con từ giờ trở đi không được đùa giỡn với trăng như thế nữa. Chú ngạc nhiên hỏi mẹ:
- Nhưng chơi với trăng thì làm sao hả mẹ?
- Con ơi - Chị Chép vây hồng nói, giọng còn run vì chưa hết sợ - biết bao nhiêu họ hàng nhà chép ta chỉ vì mải chơi trò đớp trăng như con mà đã bị tụi Bói cá rằn ri bắt mang đi mà không bao giờ trở về được nữa?
- Phải sống khổ như vậy suốt đời thì chịu sao thấu hở mẹ? - Chép còm uất ức kêu to.
Chị Chép vuốt ve lưng con giọng xót xa:
- Biết làm sao được con ơi! Tình cảnh ao quê ta lúc này gian khổ lắm. Con phải nghe lời mẹ. Những đêm trăng càng sáng bao nhiêu con càng phải tìm chỗ tối mà ẩn núp thật kín đáo, không được bơi lặn, không được đớp mồi, sủi tăm... Có như vậy mới tránh được tai họa.
Chép còm nín lặng, không dám cãi lại sợ mẹ thêm buồn. Nhưng trong lòng chú cho là mẹ đã lo lắng sợ hãi quá đáng. Chú nghĩ không dễ tụi Bói cá rằn ri muốn giết mình lúc nào thì giết. Chúng ở trên mình dưới nước. Mình có nước, có rong, có bùn che chở, mình lại thạo nghề đóng cọc chúi bùn...
Một đêm trăng rất sáng Chép còm lén mẹ chơi khuya. Vừng trăng tròn vành vạnh đã lên thẳng đứng giữa bầu trời. Sương sa đầy mặt ao, tí tách như mưa rắc. Ếch nhái giun dế quanh bờ ao đều đã ngủ thiếp chắc vì kêu la đã mệt lả. Chép còm bơi lượn vòng trong làn nước chan đầy ánh trăng.
Vừng trăng khuya đã chênh chếch về phía ngọn sung. Chép còm định quay về nằm ngủ, nhưng trăng đẹp quá chú chưa nỡ rời. Chú nổi lên ao, bơi nhè nhẹ về phía vừng trăng lung linh đáy ao, định đớp chơi thêm lần nữa. Chú há miệng chưa kịp đớp bỗng thấy đầu mình vướng phải một vật gì lùng nhùng và suýt nữa kẹt đầu vào đó. Chú vội vàng ngoặt đuôi bơi vòng lại phía sau, chúc đầu định chúi bùn nhưng cái vật bùng nhùng ma quái đấy đã nằm ngay dưới bụng chú. Và làn nước chan trăng xung quanh chú bỗng xao động với những tiếng răng rắc lạ tai. Chú có cảm giác mình đang bị vật bùng nhùng ấy nâng dần lên mặt nước. Chú kêu thét:
- Mẹ ơi, cứu con với!
Chị Chép vây hồng đang sục bùn cách đó không xa, nghe tiếng con kêu cứu lao vút đến. Liếc mắt chị đã hiểu ngay tai họa gì đang đến với mẹ con chị. Chị thất sắc kêu:
- Bơi mau ra khỏi đây con.
Nhưng chưa kịp quạt vây, hai mẹ con chị đã bị những mắt lưới vuông vây tròn bốn phía.
- Mẹ con ta bị nạn rồi! - Chị rụng rời kêu lên.
Vũng nước chan trăng trong lòng vó nhỏ dần lại, Chép còm theo mẹ tung mình cố lao qua thành vó. Nhưng đầu hai mẹ con liên tiếp đập vào triêng vó, ngã nhào trở lại. Vây lưng hai mẹ con chị đã phơi ra dưới ánh trăng. Chị Chép vây hồng vùng vẫy như phát điên, quật đuôi, húc đầu liên tiếp vào các mắt vó, chị đã húc một phát như đạn phá bắn vào những mắt vó gần sát trôn. Gần một chục mắt vó bị xé toạc. Nhưng chị không thoát ra mà nhảy tránh sang một bên, hối hả gọi con:
- Chui thoát ra mau con.
Chép còm lao đến, lách mình qua chỗ thủng mẹ vừa phá, lặn biến xuống đáy ao.
Bụng vừa chạm bùn, Chép còm ngoái lại không nhìn thấy mẹ. Chú quên hết sợ hãi, bơi phóng lên mặt ao tìm. Chú nhìn thấy mẹ đang vùng vẫy tuyệt vọng trong một cái vó nhỏ xíu, sau này chú mới biết đấy là cái vợt.
Chú gọi thất thanh:
- Mẹ ơi, mẹ!
Chị Chép vây hồng nghe tiếng con gọi liền thôi vùng vẫy. Chị chúc cái đầu xinh đẹp đầm đìa máu tươi nhìn con qua những mắt vợt lấp lánh ánh trăng. Cặp môi dập nát của chị mấp máy nói với con những lời vĩnh biệt, nhưng không thành tiếng. Bởi không nghe được mẹ nói gì trước giây phút vĩnh biệt, nên gương mặt và ánh nhìn thăm thẳm của mẹ lúc đó, đã suốt đời nhức nhối trong trí nhớ Chép còm, như một vết thương không bao giờ lành.
Vì mình không nghe lời mẹ mà mẹ phải chết!
Ý nghĩ đó khác nào một cái ngạnh lưỡi câu cứ đâm sâu vào ruột gan Chép còm, chú thấy đau đớn tưởng chừng như không thể nào sống nổi. Suốt mấy ngày liền chú cứ chúi đầu vào búi rong mà khóc, chẳng còn thiết gì đến ăn uống. Bà con dân ao kéo lại dỗ dành, an ủi chú, Cụ Ngão móm nói:
- Cháu đừng nghĩ vậy mà thêm khổ cái bụng cháu ạ. Ngắm trăng, chơi trăng thì nào có tội tình chi, cũng chỉ tại cái tụi Bói cá rằn ri trời chu nước diệt kia hết. Hễ còn tụi chúng thì bà con ta dù có chui xuống tám tầng bùn rồi cũng bị chúng lùng tìm giết chết. Không sớm thì muộn bà con dân ao ta sẽ chẳng con ai sống sót đâu cháu ạ.
Nghe cụ nói Chép còm bỗng thấy lòng sôi lên uất hận. Và nỗi giận đã lấn lướt đau buồn. Chú không khóc nữa, rời khỏi đám rong chúi đầu, chú bơi đi khắp ao, lòng mơ tưởng tìm ra được một mưu kế gì đó có thể cứu tất cả bà con thoát khỏi cảnh tù hãm, chết dần chết mòn ghê rợn này.
Năm đó, nắng hạn rất to. Mực nước ao rút cạn đến mức đáng sợ. Vào giữa trưa, nước ao như bị đun nóng muốn tuột cả vảy. Một số bà con sức yếu không thạo chúi bùn đã phải chết nắng.
“Hùa lưỡi câu, xâu mang cá”, lũ cò, vạc, cạp nong, rắn mòng, rắn nước... từ các ngả đổ xô về Ao Cây Sung kiếm ăn mỗi ngày càng đông.
Thêm nữa tụi Bói cá rằn ti dạo này bị du kích các thôn làng đánh trả quyết liệt. Chúng không còn cướp bóc được gì, xoay hết ra ao kiếm ăn. Chúng vó, nơm, câu, đâm cả ngày lẫn đêm.
Bơi đến góc ao nào, Chép còm cũng gặp những cái mang tái nhợt, những cái đuôi run rẩy, những tiếng khóc than xé ruột, những cặp mắt đỏ ngầu khóc con, khóc chị, khóc mẹ...
Cái chết rình rập, từng giây từng phút sát bên vây vẩy mỗi bà con. Cái chết rình từ lưng trời dưới đáy bùn, trong mỗi đám rễ bèo, trong lùm cỏ, búi rong. Cái chết rình cả khi trăng sáng, cả lúc tối trời... Cái chết hiện ra với bà con đủ hình đủ dạng, khi là một tiếng nổ rung mặt ao, khi là những răng chĩa có ngạnh như gươm, khi là những mắt vó mềm mại, điệp với màu nước, khi là cái mỏ dài nhọn hoắt siết chặt như bẫy kẹp, khi là cái mồm lởm chởm răng túa đầy chất độc.
Tình cảnh dân Ao Cây Sung lúc này đúng là tình cảnh trên dao dưới thớt.
Chao ôi, giá có ai bày được cho mình cách tu luyện hóa Rồng! Mỗi lần nhìn thấy cảnh bà con dân ao bị giết chóc thảm thương, Chép còm lại thầm kêu như vậy. Chú tự nhủ: Nếu có phải chịu đựng những cực hình như chặt vây, lột vẩy, móc mang để hóa thành Rồng thì mình cũng chẳng từ nan.
Và từ đó, không mấy đêm Chép còm không nằm mơ thấy mình hóa Rồng. Trong mơ chú thấy mình từ dưới đáy ao bơi phóng lên mặt nước. Chú tung mình nhảy vọt lên thật cao. Một sức mạnh kỳ lạ nâng bổng chú lên trời. Chú trở lên to lớn hơn cả những con chim sắt của tụi Bói cá rằn ri thường bay ngang qua in bóng xuống ao. Miệng chú phun lửa đỏ lè. Vây chú hóa thành những bàn chân có vuốt nhọn, to bằng cái lá súng, lá sen. Chú chỉ phun có ba cái là lửa khói bốc lên cuộn cuộn, tụi Bói cá hoảng hốt xéo đi ngay. Chú dùng bàn chân ó vuốt sắc cào tung hết những lớp rào chắn quanh ao. Chú hất tung những tảng đất đá lấp cửa ao. Nước từ các kênh mương bên ngoài lại chảy ào ào vào ao. Chớp mắt nước đã dâng cao mấp mé bờ. Và ao quê trở lại như xưa, nước trong mát như buổi sáng mùa thu đẹp trời...
Một đêm chú nằm mơ gặp một cụ Chắm đen già lụ khụ, vây vẩy mốc thếch không biết từ đâu bơi đến, Cụ chỉ lối cho chú đến hang mụ phù thủy tài giỏi, có chín mươi chín phép lạ. Chắc mụ ta có thể giúp chú hóa Rồng. Chú hăm hở bơi đi. Lối bơi đến hang mụ, phải chui qua không biết cơ man nào là hom giỏ, hom đó, hom lờ... Chui qua hết các lớp hom, đến một rừng rong mà mỗi nhánh đều treo lủng lẳng hàng trăm chiếc lưỡi câu lớn nhỏ, ngạnh và mũi sáng lóe trong làn nước đen thẫm. Hàng nghìn bộ xương cá trắng hếu bị lưỡi câu móc vào hàm, vào đuôi, vào vây... đung đưa trước mặt Chép còm. Vượt khỏi rừng rong, chú phải bơi dọc một con kênh nước bốc hơi nghi ngút. Nóng... chao ôi, chú có cảm giác mình sắp chín nhừ, vây thịt sắp rụng ra từng mảng. Bơi hết con kênh lại phải càn qua con mương nước cạn xăm xắp bùn, phơi hết cả vây lưng. Hai bên bờ mương tụi Bói cá rằn ri đứng sắp hàng, trong tay lăm lăm nào súng, chĩa ba, chĩa năm, nơm, dặm, rập, chài, vó...
Hang mụ phù thủy nằm sâu dưới đáy nước, phải qua ba lớp cửa. Lớp thứ nhất có hai con cò cói xù lông cổ, mỏ nhọn như mũi lao đứng co một chân canh gác. Lớp cửa thứ hai có hai con rái cá nhe răng trắng xóa, mắt trừng trừng như sắp ăn tươi nuốt sống những ai lọt qua đó. Lớp cửa thứ ba có hai con rắn cạp nong khoanh trắng khoanh đen, nằm cuộn tròn, ngóc cao dầu thở phì phì lưỡi có ngạnh thè ra thụt vào liên tiếp. Chép còm đã vượt qua ba lớp cửa như thế nào chú không nhớ rõ. Chú chỉ nhớ là vượt qua khỏi hiểm nguy này, chú lại xông thẳng vào hiểm nguy khác, không một chút chùn vây, run đuôi. Cuối cùng chú cũng đã lọt vào chỗ mụ phù thủy ở. Gan dạ liều lĩnh là thế, mà khi nhìn thấy hình dạng cổ quái của mụ phù thủy Chép còm phải khựng lại, vi vẩy dựng ngược vì kinh hãi. Mụ ta đầu mèo, mình rái cá, đuôi rắn cạp nong. Bàn tay bàn chân mụ ngón nào cũng cong cong, nhọn hoắt và có ngạnh. Khi biết rõ Chép còm muốn gì, mụ cất giọng khàn đặc như nghẹn bùn nói:
- Khá khen cho mi đã dám liều lĩnh bơi thấu đến đây. Việc biến cá chép thành rồng trừ tay con mụ già này thì không ai đủ sức giúp mi đâu. Nhưng tiền công cán thuốc men mi phải trả ta đầy đủ mới được.
- Mụ muốn tôi trả công bằng gì? Chép còm hồi hộp hỏi.
- Ta chẳng tính đắt mi đâu. Một bộ vẩy, một cái mang, hai vây bơi chèo một vây lưng và một bong bóng.
- Thế mà mụ còn bảo không đắt. - Chép còm rùng mình kêu lên, - thân con cá mà mụ lấy đi chừng ấy thứ thì tôi còn biết sống ra sao, bơi lặn bằng gì?
Mụ ngúc ngoắc cái đầu mèo, ngoe nguẩy cái đuôi rắn, giọng trở nên đanh đá:
- Cái đó tùy mi khách hàng, ta chẳng thiếu.
- Mụ có thể tính bớt cho tôi một ít không? - Chép còm nói gần như năn nỉ.
- Một cái vẩy ta cũng không bớt, ta đã tính với mi cái giá chung.
- Thôi được, tôi đồng ý trả mụ với giá đó - Chép còm cố nén giận nói.
Mụ phù thủy lôi trong gầm giường ra một cái mai ba ba khá lớn, lật ngửa làm chảo nấu nước phép. Mụ vẩy một nắm nào ruột cá trôi, bong bóng cá mè, hoa khế cá trê làm rác chùi chảo. Mụ vừa chùi vừa nói:
- Ta ghét nhất là những đứa làm ăn bẩn thỉu. Nồi chảo mà cứ để tanh ngòm ngòm là ta không chịu được.
Chép còm nhếch mép cười thiểu não:
- Nếu không được hóa rồng thì tôi cũng được chết trong sự sạch sẽ quý hóa của mụ.
Tưởng khách hàng khen mình thật bụng, mụ ngoác miệng cười toe toét:
- Không sạch sẽ lỡ mà nó nhiễm trùng thì khốn!
Mụ rót vào chảo hàng chục thứ nước phép. Màu bùn non rau rêu, rễ bèo... đựng trong những chiếc lọ làm bằng sọ cá. Mụ nhóm lò đun sôi. Trong lúc chờ nước phép sôi, mụ móc một ngón tay vào mang Chép còm đặt lên thớt, dùng một con dao phay cùn rỉ đánh vẩy chú. Mụ chặt hết vây lưng, vây bụng, ngoáy mũi dao vào bụng moi ra cái bong bóng. Mụ chích bụng chú thành sáu cái lỗ. Nước phép sôi, mụ bưng cả chảo dốc tuột vào miệng chú. Chú tưởng mình phải nuốt cả một khối lửa vào bụng. Một cơn đau khủng khiếp xé ruột, xé gan. Và chính ngay lúc đó đã xảy ra chuyện thần kỳ. Chú thấy thân hình mình dài rộng ra một cách khác thường. Trên làn da vừa bị đánh vảy đầm đìa máu tua tủa mọc ra một lớp vảy mới, có thể xòe ra cụp vào và kêu lanh canh như thép. Sáu cái lỗ bị chọc thủng dưới bụng mọc ra sáu cái chân có móng vuốt nhọn sắc như gươm. Chớp mắt Chép còm đã hóa thành một chú rồng to đẹp và dũng mãnh có thể làm cho tất cả các con Rồng trên các mái đình, mái chùa phải chết uất vì ganh tỵ. Chép còm bay vụt lên khỏi mặt nước, trở lại Ao Cây Sung. Chú lặn xuống ao. Thân hình chú to lớn đến nỗi làm cho nước ao phải dềnh lên chực tràn bờ. Chú xòe rộng bộ vẩy kêu lanh canh như thép, mời tất cả bà con dân ao, lớn bé, già trẻ chui hết vào bên trong và chú bay vút lên trời chú kêu to:
- Bà con gắng bám vào cho chắc. Đừng để rớt. Tôi phải bay nhanh đây!
Chú bay cho đến lúc gặp một dòng sông xanh màu cốm mới, hai bên bờ cách xa nhau đến năm, mười tầm gọi, nhấp nhô muôn ngàn con sóng lớn, xuôi ngược những cánh buồm màu cánh cò... Chú liền chúi đầu lao thẳng xuống dòng sông. Chú lặn mãi, lặn mãi vẫn không tới đáy sông. Chú bỗng thấy lưng mình nhẹ bỗng. Bà con mừng nước đã rời khỏi lưng chú từ lúc nào không hay. Tiếng bà con quẫy đuôi, quạt vây, lao xao reo mừng khắp bốn phía...
Chương kế tiếp