Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Hồi 7 (Phần 2)

Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng đang tức vì bị bọn Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra. Hoàng thượng bèn ngầm ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.

Chỉnh nhận được mệnh, vội hội họp đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:

- Bọn Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản nghịch. Ta nay vâng mật chỉ đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên cạnh nhà vua. Vậy các ngươi phải nên chung lòng gắng sức để cùng giúp nhà vua trong lúc khó khăn.

Khi quân Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở huyện Quỳnh Lưu, thì gặp tham lĩnh Mãn trung hầu và đốc thị Phan Huy ích, hai người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh Chỉnh. Chỉnh lập tức sai đội thiết kỵ bất thình lình đón đánh. Hai bên giao chiến ở địa phận Ngọc Sơn (một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Kết quả, Mãn trung hầu bị thua, chết tại trận, còn Phan Huy ích thì bị bắt sống.

Chỉnh mắng ích về những tội vào bè với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:

- Nghe nói nhà ngươi làm cái trống lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người phải không?

ích run sợ mà xin lỗi.

Nguyễn Kim Khuê vì chỗ quen biết nên hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:

- Hừ! Cái bộ thầy đồ nói khoác, giết cũng vô ích.

Đoạn Chỉnh tha cho ích và bắt phải đi theo mình.

Sau khi Chỉnh thắng được trận ấy, thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương, vương liền cho đòi Nhưỡng vào phủ để bàn cách chống cự.

Lúc này, hoàng thượng đã hạ mật chỉ sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt trừ họ Đinh. Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải Dương và Yên Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.

Dân chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ tàn bạo, nên khi được mật chỉ của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành từng đoàn, đưa hịch kể tội ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín thành trấn.

Nhưỡng liệu sức mình không ngăn nổi, bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ vòng vây, chạy về giữ Hàm Giang.

Khi ấy, ở kinh kỳ người ta đồn rằng Nhưỡng đã bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm tối hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành bãi chiến trường. Trong một ngày, người ta nhốn nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Lòng người nơm nớp lo sợ. Dân chúng trong thành khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy trốn về các vùng thôn quê; quan quân ngăn cấm cũng không được.

Quận Thạc biết sự thế không thể làm gì được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:

- Vua chúa thù ghét nhau, việc nước không có chủ. Quận Liễn đã đi mất rồi mà giặc Chỉnh lại sắp đến, ta đóng mãi ở đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn Tây, chiếm cứ miền thượng du, giữ vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung dung xem việc thiên hạ, chờ cơ hội mà nổi dậy, sau này ắt phải ký công. Các ngươi đều ở dưới cờ của ta, roi cung giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc trẩy quân, cần phải đánh dẹp trộm cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng có bắt chước quận Liễn, đi đâu làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ đông đều phản lại mình.

Bọn thủ hạ đều nói:

Chúng tôi đâu dám chẳng nghe theo tướng lệnh?

Quận Thạc liền thu quân trở về xứ Đoài (tức Sơn Tây).

Thế là quận Liễn đi, quận Thạc lại đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng. Hoàng thượng truyền cho các hoàng thân đốc thúc những lính đã mộ được đêm ngày tuần phòng, canh giữ cung điện. Còn ở bên phủ chúa thì chỉ có viên quyền phủ sự Bùi Nhuận, viên hành tham tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế, hàng ngày ngồi trong phủ đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ huyện không một ai chịu làm theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp đều bị dân quê đánh đập, lột quần áo, chỉ còn cái mình trần chạy về.

Chúa án đô thấy vậy rất lo, nói với Trọng Tế:

- Việc lớn hỏng mất rồi! Nếu không phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu Khang là chắt vua Hạ Vũ; Thần My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp mất nước, Thiếu Khang và Thần My đã khôi phục được) thì không thể cứu vãn được tình thế. Ta không tự lượng sức mình, trót đã làm chúa. Nhà ngươi quá đỗi trung thành, trót đã giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế lực cực kỳ mạnh mẽ.

Tục ngữ có nói: "ở vào thế cưỡi hổ không thể xuống được". Muốn cho xong việc này, phi nhà ngươi không còn ai.

Rồi chúa bèn sai Tế làm chức trấn thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc dĩ phải xin vâng mệnh. Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh thì Tế đã mất cả hồn vía. Kéo quân ra đến ô Cầu Dền, Tế còn trùng trình đóng ở đó hai ngày, chưa chịu lên đường. Sau chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế vừa mới đến làng Bình Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), thì có tin báo Chỉnh đã vượt sông Thanh Quyết, Tế giật mình mà rằng:

Trừ phi có Phù Đổng thiên vương sống lại, còn ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn, quận Thạc thật là biết thời cơ. Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại không bằng mưu trí của bọn võ biền! Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn mất rồi!

Liền đó, Tế thu quân qua bến Thanh Trì, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch thẳng sang vùng Kinh Bắc, rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương cho lĩnh chức trấn thủ Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi dậy khác.

Chúa án đô thấy tờ khải của Tế, sợ hãi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bùi Nhuận đã đem cả gia quyến trốn đi từ ban đêm rồi. Chúa lại cho đòi Sỹ Uông. Uông cũng thác bệnh xin về nhà riêng. Chúa khóc mếu nói:

- Ta chẳng may đẻ ra ở nhà chúa, lại bị một lũ tiểu nhân làm cho lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này, thà cứ ở Chương Đức làm ông sư già, chống cây thiền trượng (gậy của nhà sư) ở dưới cửa chiền mà lại hoá hay!

Rồi chúa ngoảnh lại hỏi bọn tả hữu:

- Bây giờ nên đi đâu?

Có người trong họ quê ở huyện Quế Dương tâu rằng:

- Xin chúa cứ trấn tĩnh, hãy vào nhà Thái-miếu làm lễ cáo biến, thu xếp thân chủ của tiền vương, để tôi ra sông tìm thuyền, chờ đến đêm khuya, tôi xin phò chúa qua sông sang bắc, đi về làng tôi. Nhà tôi đã trải mấy đời làm tướng cầm quân, hào mục vùng Từ Sơn đều ở trong cửa mà ra, nếu tôi lấy điều trung nghĩa mà kêu gọi, chắc hẳn không ai là không theo. Đinh Tích Nhưỡng ở Cẩm Giàng làm cánh tay trái; Dương Trọng Tế ở Gia Lâm làm cánh tay phải; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây làm ngoại ứng; còn chúa cứ việc đóng tại huyện Quế Dương mà hiệu triệu quân cần vương, đồng thời dựa vào thế hiểm của sông Nhị Hà để cố thủ. Chỉnh tuy hung tợn, há dám sang sông đánh nhau cùng ta? Xin chúa đừng lo!

Chúa mừng rỡ mà rằng:

- Có lẽ trời chưa nỡ làm mất họ Trịnh, nên mới đem ngươi mà ban cho ta. Nếu quả như lời ngươi nói, thật là phúc lớn cho xã tắc vậy!

Đồng hồ (đây là đồng hồ ngày xưa: người ta dùng một cái bình đựng nước có khắc từng độ, và có lỗ cho nước nhỏ giọt dần dần, rồi cứ xem mực nước mà biết giờ giấc) nhỏ giọt xuống đến trống canh ba. án đô vương bèn lẻn sang bắc, quan quân theo hầu chỉ chừng vài chục người. Tàn binh Thanh-Nghệ ở trong bốn đội quân thị vệ không một tên nào đi theo.

Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.

Thế là hai trăm năm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành ra bãi đất cháy đen! Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính-ngọ (1786).

Lại nói, khi qua khỏi sông Thanh Quyết, Chỉnh trước hết cho ngay bộ hạ là Lê Giốc đem biểu tới dâng nhà vua.

Trong biểu đại ý nói rằng: "Thần vâng chỉ kéo quân vào bảo vệ kinh sư, đã kính cẩn xuất quân từ tháng trước. Khi tới huyện Ngọc Sơn, Lê Trung Nghĩa (tức Mãn trung hầu) và Phan Huy ích dám ra chống cự, thần vẫy toán thiết kỵ tiến đánh, chém chết Trung Nghĩa, bắt sống Huy ích. Nhờ về oai trời, lòng hăng hái của quân sĩ tăng lên gấp trăm lần. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc, thần đi tới đâu dân chúng vui mừng đón rước tới đó. Đến chỗ nào thần cùng đều kính cẩn tuyên bố oai đức của nhà vua, khiến cho đâu đấy đều yên nghiệp làm ăn. Thần nay thân mang giáp trụ, hồn mơ tưởng quân thiều (khúc nhạc của vua Thuấn. ở đây mượn để chỉ vào nhà vua), tấc lòng khôn xiết nhớ mong cửa khuyết.

Hoàng thượng xem xong tờ biểu, mừng lắm, liền hỏi thăm về tình trạng khi ở trấn Nghệ An, Giốc cứ thực mà tâu. Hoàng thượng khen Chỉnh đã khéo quyền biến; rồi phong cho Giốc làm chức nội hàn viện cung phụng sứ thiêm thư khu mật viện sự, trông coi cơ Tả oai.

Khi Chỉnh tới làng Thịnh Liệt, hoàng thượng sai các quan triều ra ngoài cửa ô đón tiếp. Lúc Chỉnh vào triều hoàng thượng cho ra mắt ở điện Trung Hoà và ân cần an uỷ. Chỉnh tâu rằng:

- Gần đây, kiêu binh làm loạn, đại thần (chỉ quận Huy) gặp nạn, thần bấy giờ đang cầm quân ở ngoài, vì chúa Trịnh không dong, nên phải bỏ nước trốn đi. Thần đã nghĩ kỹ, nguồn gốc của sự rối loạn ấy, là do cương thường sai trái, mũ dép đảo lộn mà ra. Khoảng năm Canh thân (1740), Tân-dậu (1741), những kẻ trung nghĩa trong nước đều căm tức về chuyện ấy, người thì phò hoàng thân mà nổi dậy, người thì giữ quận ấp mà mộ binh. Công việc của họ tuy không thành, nhưng cái tiếng nghĩa khí cũng đã lan rộng. Coi đó đủ biết, người ta ai cũng chung một bụng ấy, không phải thần vì mưu riêng của thân mình mà gây ra hiềm khích. Vả chăng thần lấy điều nghĩa mà cảm động lòng người, là cốt để chỉnh đốn lại cơ đồ nhà vua, làm sáng tỏ đạo quân thần cho hợp với lẽ trời đất. Chớ còn đối với chúa Trịnh, thần có thù oán gì đâu? Nay nếu lòng trời đã hối việc gieo hoạ, mọi người đều biết sửa lỗi lầm; đó há chẳng phải là phúc lớn của nước nhà sao? Tiên đế thương tấm lòng ấy của thần, đã dùng những lời lẽ ôn tồn để dụ thần, thần thật cảm kích khôn xiết. Vậy mà người trong nước, những kẻ không hiểu thần, lại cho thần là có tội. Họ muốn mưu đồ bước theo vết xe đã đổ, rắp tâm giết chết thần để quấy rối chính sự buổi đầu của bệ hạ. Cúi xin bệ hạ xét kỹ lo xa, không có điều gì là không soi đến. Thần chẳng dám đổ vạ cho người để che lỗi của mình. Người xưa đã nói: "Biết tôi là vua". Mong ở lượng trên soi xét.

Hoàng thượng nói:

- Trẫm đã biết rồi! Ngày nay giúp trẫm dẹp yên loạn lạc, làm cho nước được thái bình, chỉ nhờ nhà người mà thôi!

Rồi đó, hoàng thượng thăng cho Chỉnh làm chức bình chương quân quốc trọng sự, tước Bằng trung công. Một người thân cận với Chỉnh là Nguyễn Kim Khuê và con trai Chỉnh là Nguyễn Hữu Du đều được phong tước hầu, được cầm quân và cùng thuộc vào trong tướng phủ. Ngoài ra, bao nhiêu bộ hạ, tướng sĩ của Chỉnh, cũng đều được theo thứ bậc mà thăng chức tất cả.

Khi Chỉnh mới chạy về Nghệ An, trong triều có viên quan văn là Nguyễn Đình Giản, thường vẫn nói mãi về tội Chỉnh dắt quân nước ngoài về phá nước nhà; lại xin gánh vác việc đánh Chỉnh để giết tên giặc của nước, và thề không cùng sống với Chỉnh. Bấy giờ triều đình cũng cho là người hăng hái, nhưng không dám chuẩn y lời xin của Giản.

Viên quan Nguyễn Đình Giản ấy, người làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), là người chất phác, cương trực, hay công kích lỗi lầm của người khác. Kẻ có lỗi dẫu là bậc quyền quý, là bạn bè gần gũi hay là bà con thân thuộc, Giản cũng đều vạch lỗi ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi người đều khen Giản là thẳng thắn.

Đến lúc Chỉnh vào kinh, thì Giản đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các quan bàn riêng với nhau: Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu khuất phục, nhất định Giản sẽ lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu Giản về triều, chắc Chỉnh sẽ không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để giết Giản. Hai sự việc ấy không biết rồi sẽ ra sao?

Kim Khuê nghe được những lời bàn ấy, bèn hỏi Chỉnh:

- Ông cho Nguyễn Đình Giản là hạng người như thế nào?

Chỉnh đáp:

- Cuồng trực! (thẳng thắn đến mức cuồng dại)

Khuê lại hỏi:

- Có thể dùng được không?

Chỉnh trả lời:

- Chẳng những dùng được mà thôi, con người ấy còn đáng trọng nữa là khác!

Khuê lại hỏi tiếp:

- Ông không giận Giản, có phải là thật tình chăng?

Chỉnh nói:

- Ông chẳng thấy quận Hoàn là bố vợ hắn, vậy mà hắn còn ngồi tại giữa triều kể tội ông ta rằng quỳ gối theo giặc, huống chi là người khác? Nếu mình có lỗi, hắn nói đúng. Còn như mình không có lỗi mà hắn nói, thì cũng không hại gì cho mình. Con người như hắn thực không nên giận. Mà có giận cũng không làm gì hắn tốt. Chẳng qua chỉ tổ để cho người ta nhòm thấy chỗ nông sâu của mình thôi!

Khuê nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên vời Giản về dùng, để thu phục lòng người trong nước. Chỉnh nghe theo, liền sai người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết sức ôn tồn, mềm mỏng.

Giản trở về, vừa gặp lúc triều đình đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử làm bình chương sự; Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng bình chương sự; Nguyễn Huy Trạc, Phạm Đình Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đình Giản làm phó đô ngự sử.

Khi mọi việc đã tạm yên, Chỉnh liền sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.

Năm ngày Chỉnh mới vào chầu một lần, tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn bạc công việc. Còn những ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều phải tới dinh thự riêng của Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.

Từ đó, quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.

Bấy giờ, tiền tệ trong nước phần nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ về nạn khan tiền, hàng hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với triều đình, ra lệnh thu vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem về kinh sư, mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc chuông tượng của các thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức thì bị chúng tra khảo, trừng trị. Chỉ riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía bắc kinh thành, là chúng không dám lấy mà thôi.

Thấy Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa Đại Hưng hai câu đối như sau:

Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại?

Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc còn đâu nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi! Chữ "đỉnh" (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp của nhà vua)

Chỉnh nghe hai câu đó, lấy làm căm ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng, những việc mình làm đều không được dư luận đồng tình. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn thế ra oai, để hòng khoá miệng mọi người.

Hồi Chỉnh trốn theo quân Nam, có viên quan võ là Hoàng Đình Xước vâng chỉ đốc lính coi giữ kinh thành. Khi đó, Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên đường, liền bắt lại hỏi. Người ấy xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho đi. Đến khi Chỉnh tới kinh sư, Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra mắt Chỉnh để trả lại thanh gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói nhà Xước có nhiều đồ quý lạ, Chỉnh bèn đòi lấy kỳ hết, rồi mới tha.

Những việc làm của Chỉnh đại loại đều như thế thực là tàn bạo và không còn kiêng sợ gì cả.

Muốn thêm oai thế, Chỉnh lại tự đặt tên quân đội của mình là đạo Vũ Thành. Trong đạo chia ra năm doanh; nội quân gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ chia làm năm đội; khí giới, màu sắc quần áo đều trang bị theo hình thức của triều nhà Thanh, để cho phân biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở của Chỉnh, nhà cửa, lâu đài, kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới, có ý muốn sánh ngang với nhà vua. Trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì chiếm quyền trấn thủ các trấn, phàm những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của Chỉnh chia nhau lĩnh chức. Tất cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước rồi sau mới tâu vua. Thậm chí có việc đã bàn định tại triều mà vua cũng không được biết.

Uy quyền của Chỉnh ngày càng to lớn như vậy, nên hình tích của hắn cũng lộ ra hết. Người ta bàn tán sôi nổi, ai cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp chế nhà vua sẽ còn tệ hơn chúa Trịnh ngày xưa.

Hoàng thượng thấy thế cũng hơi ngờ Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi nói kín với hai viên nội hàn là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp rằng:

- Chỉnh tuy có công bảo vệ, nhưng dần dà đã thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể chặn ngay lúc đầu, khiến hắn không thể càn rỡ được nữa, thì mới đúng với thuật nuôi chim ưng (đời Tam quốc, Trần Đăng nói với Lã Bố rằng: "Tào công nói nuôi Lã Bố như nuôi chim ưng, cáo thỏ chưa hết thì không dám cho ăn no, nếu ăn no ưng sẽ bay đi mấtv.v...". ở đây dùng ý ấy). Nếu để khi thế lực của hắn đã thành, thì hắn sẽ khó trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các ngươi hãy nên tính hộ trẫm!

Bọn Quý, Hợp tâu:

- Như lũ thần đã xem xét, thì Chỉnh là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là một kẻ bầy tôi hiền tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là vật có thể dạy dỗ; giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ còn có một cách là giết đi mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hãy nên coi hắn như người tâm phúc, đãi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm, không tỏ vẻ gì nghi kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn việc, luôn thể đặt tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen đi mà coi là thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới khỏi lộ, biến loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ý ngu của lũ thần, chỉ có mẹo ấy là hay hơn cả!

Hoàng thượng nói:

- Chuyện này ra ở miệng các ngươi, vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh Dịch có câu rằng: "Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện thời mất thân mình". Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao giờ gặp cơ hội có thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi.

Thực là:

Âu quen trên biển chừng không lạ 

Thỏ mắc trong vòng hẳn khó ra.

Chưa biết việc này như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.

-------------------------------------------------
Theo sách Liệt sử: xưa trên biển có người chơi với chim âu đã quen thuộc. Một hôm anh ta theo ý người cha định bắt chim âu về cho cha chơi, chim âu bèn không chịu đậu xuống nữa. Câu này ý nói việc vua Lê định lừa Nguyễn Hữu Chỉnh uống rượu cho quen để đánh thuốc độc cũng giống như thế.

Kinh Thi có bài thơ "Thỏ ta" ý nói đời Văn vương đến những người làm nghề bẫy thỏ cũng có thể dùng làm quan. "Thỏ ta" là cái bẫy đánh thỏ. ở đây tác giả chỉ mượn hai chữ ấy để nói một khi Nguyễn Hữu Chỉnh đã mắc vào cạm bẫy thì khó mà trốn khỏi.

Chương kế tiếp