Thép Đã Tôi Thế Đấy

Chương VI (1)

Ngôi nhà to cổ kính chỉ có một cửa sổ che màn the là thắp đèn sáng mà thôi. Ngoài sân, con chó Tơ-rê- do bị xích sủa lên khàn khàn.

Đang thiu thiu ngủ, Tô-nhi-a nghe mang máng có tiếng mợ nói nhỏ: "Chưa, em nó chưa ngủ đâu, Li- da cứ vào đây".

Bạn đến, chân bước nhẹ nhàng, trìu mến ôm choàng lấy Tô-nhi-a, xua tan hết vẻ ngái ngủ ở cô.

Tô-nhi-a cười mệt mỏi:

- Li-da đến chơi hay quá, nhà mình hôm nay có vui lớn: cậu mình bị mệt hôm qua lên cơn sốt nặng, hôm nay đã dứt cơn, suốt ngày ngủ yên. Còn mình và mợ mình thì cũng nghỉ, vì suốt mấy đêm nay không chợp mắt. Li-da có tin gì kể đi?

Tô-nhi-a kéo bạn lại ngồi cạnh trên đi-văng.

- Ồ, tin thì rất nhiều, nhưng có một tin mà mình chỉ có thể kể riêng với Tô-nhi-a thôi. - Li-da vừa nói vừa cười, mắt tinh nghịch liếc nhìn về phía mẹ Tô- nhi-a.

Mẹ Tô-nhi-a cũng mỉm cười. Bà là một người đàn bà đoan trang, đi đứng nhanh nhẹn như còn con gái, tuy năm nay đã ba mươi sáu tuổi; bà có cặp mắt màu tro thông minh, khuôn mặt đầy nghị lực, không đẹp sắc sảo nhưng có duyên.

Nghe Li-da nói, bà kéo ghế lại gần đi-văng, nói đùa: "Được, bác bằng lòng để hai cô ngồi nói chuyện riêng với nhau. Song trước hết cháu hãy kể cho bác nghe những tin tức ai cũng nghe được đã nào?"

- Tin thứ nhất, Tô-nhi-a ạ, là chúng mình sẽ không đi học nữa. Hội đồng nhà trường đã quyết định cấp bằng tất nghiệp cho học sinh lớp bảy. - Giọng Li-da kể càng phấn khởi. - Mình mừng lắm. Mình đã ngấy cái món đại số và hình học lắm rồi ! Mà học những cái ấy làm gì kia chứ? Bọn con trai thì đã đành, chúng nó có thể sẽ học lên nữa, tuy chúng nó cũng chẳng biết sẽ học ở đâu và bao giờ. Chỗ nào cũng là mặt trận đánh nhau. Sợ thật! Nhưng còn chúng mình, chúng mình rồi sẽ đi lấy chồng cả. Mà đời làm vợ thì có cần gì đến đại số đâu? - Nói đến đây, Li-da cười phá lên.

Mẹ Tô-nhi-a ngồi với hai cô một lát, rồi trở về phòng mình.

Li-da nhích lại gần Tô-nhi-a, lấy tay quàng cổ bạn, rỉ tai kể lại cuộc xô xát mà Li-da đã được mục kích ở ngã tư ngoài phố.

- Tô-nhi-a thử tưởng tượng mình đã ngạc nhiên chừng nào khi nhận ra người đánh tháo cho tù là... Tô-nhi-a thử đoán xem ai?

Tô-nhi-a nghe chuyện rất ham, thấy hỏi thì nhún vai tỏ vẻ không biết.

Li-da buột miệng:

- Người đó là Ca-rơ-sa-ghin.

Tô-nhi-a nghe giật nảy mình, cúi xuống, đau đớn, như hỏi lại chính mình:

- Ca-rơ-sa-ghin à?

Li-da muốn thử xem Tô-nhi-a nghe tin có lao đao không, bây giờ đã biết rõ kết quả rồi, thích chí liền kể sang chuyện bất hòa giữa cô và Vích-to.

Li-da mải kể chẳng để ý gì đến vẻ mặt Tô-nhi-a lúc đó đã tái đi ngón tay thon thon dứt dứt nếp áo cộc tay màu xanh. Li-da đâu có biết lúc này trái tim Tô-nhi-a se lại bao nhiêu lo lắng. Li-da không tài nào hiểu được vì sao hàng lông mi rất dày trên đôi mắt đẹp kia lại run rầy những lo âu.

Tô-nhi-a chẳng nghe gì câu chuyện về thằng quan hai say rượu muốn tiễn Li-da về nhà để giở trò nữa. Một ý nghĩ duy nhất giày vò Tô-nhi-a: "Vích-to biết tên người đánh tháo là Pa-ven. Tại sao Li-da lại nói cho hắn biết?" Và bất giác Tô-nhi-a buột mồm nói to câu đó làm cho Li-da không hiểu ra sao.

- Mình nói cái gì?

- Sao Li-da lại đem nói với Vích-to về chuyện "anh Pa-vơ-lu-sa", nghĩa là về chuyện anh Pa-ven Ca-rơ- sa-ghin làm gì? Vích-to có thể sẽ tố cáo...

- Không đâu! Mình tin là không, vì nghĩ cho cùng thì Vích-to tố cáo làm gì mới được?

Tô-nhi-a ngồi phịch xuống, tay ôm riết lấy đầu gối.

- Li-da ạ, Li-da không hiểu gì cả! Vích-to và Pa-ven thù ghét nhau. Ngoài ra lại còn chuyện khác nữa... Li-da đã làm một việc rất sai là đã kể cho Vích-to biết tên người đánh lính là Pa-vơ-lu-sa.

Đến bây giờ Li-da mới nhận thấy nỗi hồi hộp lo âu của Tô-nhi-a, và tiếng gọi "Pa-vơ-lu-sa" âu yếm mà Tô-nhi-a buột miệng thốt ra khiến Li-da bỗng nhiên hiểu hết tất cả những chuyện mà lâu nay Li-da còn mang máng ngờ ngợ.

Li-da cảm thấy mình có lỗi, nên im bặt, thái độ bối rối. Li-da nghĩ thầm: "Thế là mình nghĩ không sai! Ngộ thật! Hóa ra Tô-nhi-a đã phải lòng rồi. Phải lòng ai mới được chứ? Phải lòng một anh thợ tầm thường..."

Li-da rất muốn hỏi chuyện này, song vì nể bạn lại thôi. Muốn tìm cách làm nhẹ lỗi mình đối với bạn, cô nắm lấy tay Tô-nhi-a.

- Tô-nhi-a ơi, Tô-nhi-a lo lắm phải không?

Tô-nhi-a đang mải nghĩ đi đâu, đáp lại:

- Không, có thể Vích-to tử tế hơn mình tưởng.

Mỗi bên theo đuổi một ý nghĩ riêng, câu chuyện không ăn khớp với nhau. Giữa lúc đó thì Đê-mi-a- nốp đến. Cậu ta là một thiếu niên nhút nhát, vụng về cùng học một lớp với Tô-nhi-a và Li-da.

Tiễn các bạn về rồi, Tô-nhi-a còn đứng một mình hồi lâu ngoài cổng. Dựa lưng vào hàng rào, cô thừ người nhìn đường cái chạy thẳng vào phố như một dải lụa màu sẫm. Gió là giống lang thang chơi vơi vô tận, gió nhẹ vật vờ, đến vờn trên má Tô-nhi-a, gió mang hơi ướt mát lạnh và hương vị hoa cỏ mùa xuân. Xa xa, những cửa sổ ở các căn nhà trong phố nhấp nháy như những con mắt đỏ đục ngầu giương lên nhìn, báo hiệu điều gì chẳng lành. Dưới kia là phố xá đối với cô xa lạ. Dưới phố ấy, dưới một mái nhà ở phố ấy, người bạn cứng đầu cứng cổ của cô vẫn còn chưa hay tai nạn sắp giáng xuống đời anh. Và có thể, anh cũng đã quên cả Tô-nhi-a rồi. Bao nhiêu ngày đã trôi qua từ lần gặp cuối cùng. Lần ấy, Pa-ven xử sự không đúng, nhưng dù sao cũng là chuyện đã qua, Tô-nhi-a đã quên bẵng đi rồi. Ngày mai, Tô-nhi-a sẽ gặp Pa-ven và tình bạn sẽ nối lại, tình bạn ấy thật dạt dào êm ái. Tô-nhi-a tin lắm, tình bạn sẽ nối lại. Chỉ cầu cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai hại. Nhưng sao đêm nay rờn rợn nơm nớp dường như bóng đêm ẩn nấp, bóng đêm đang đứng rình... Trời lạnh.

Tô-nhi-a nhìn lại con đường lần nữa, rồi bước vào nhà. Nằm cuộn trong chăn, cô ngủ thiếp đi với ý nghĩ: chỉ cầu cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai hại!...

Sáng tinh sương, cả nhà còn ngủ, Tô-nhi-a đã bừng tỉnh dậy. Cô mặc vội quần áo, rón rén nhè nhẹ đi ra sân để khỏi làm thức giấc người nhà, rồi mở xích con chó lông xù Tơ-rê-do dắt đi ra phố. Đến trước nhà Pa-ven, Tô-nhi-a dừng chân lại, do dự, nhưng rồi đẩy cửa bước vào. Con chó chạy trước ngoe nguẩy đuôi...

Cũng vào sáng nay, từ sớm A-rơ-chom ở dưới làng về đi xe ngựa cùng với bác chủ lò rèn của anh. Tới cửa, anh xốc bao bột mì người ta trả công cho anh lên vai, rồi bước vào sân. Bác chủ lò rèn mang những thứ còn lại trên xe, bước theo sau. A-rơ-chom ném bao bột mì xuống bên cửa để ngỏ, cất tiếng gọi:

- Páp-ca ơi!

Song, không có tiếng đáp lại.

Người thợ rèn thấy thế nói:

- Thì ta cứ đem vào nhà, còn đứng đây chờ gì nữa!

Xếp mọi thứ vào bếp đâu đấy, A-rơ-chom bước vào phòng và kinh ngạc đứng đờ người ra: nhà cửa bị lục lọi đảo lộn lung tung, quần áo cũ vứt bừa ra sàn nhà.

A-rơ-chom ngơ ngác không hiểu sự thể ra sao, càu nhàu quay lại nói với người thợ rèn:

- Trời đất! Thế này nghĩa là thế nào?

Bác chủ lò rèn cũng thêm vào:

- Thật là loạn.

- Không hiểu thằng bé rúc vào đâu? - A-rơ-chom bắt đầu phát cáu.

Nhưng nhà cửa vắng tanh, chẳng có ai mà hỏi.

Bác chủ lò rèn từ giã ra về.

A-rơ-chom đi ra sân, tìm kiếm chung quanh.

"Thật chẳng hiểu câu chuyện ra sao nữa! Cửa thì bỏ ngỏ, mà Páp-ca thì mất hút".

Có tiếng chân đi đằng sau, A-rơ-chom quay lại.

Con chó to, tai vểnh, đứng ngay trước mặt. Một cô con gái mà anh không quen từ hàng rào đi vào nhà.

Cô ta nhìn A-rơ-chom, giọng hỏi khẽ:

- Em cần gặp anh Pa-ven.

- Tôi cũng đang cần gặp nó đây. Trời biết được nó rúc vào đâu! Tôi vừa về, cửa bỏ ngỏ mà chẳng thấy nó đâu. - Rồi A-rơ-chom hỏi cô ta: - Còn cô đến tìm Pa-ven phải không?

Câu trả lời lại là một câu hỏi:

- Anh có phải là A-rơ-chom, anh ruột Pa-ven không ạ?

- Phải, cô hỏi làm gì vậy?

Nhưng cô gái không đáp lại, vẻ mặt lo âu ngước nhìn cánh cửa mở. "Sao mình không đến từ tối hôm qua? Có lẽ thế rồi ư, có lẽ thế rồi ư?..." - Nghĩ thế, nỗi lo nặng nề càng đè trĩu cõi lòng Tô-nhi-a hơn nữa.

A-rơ-chom còn đang ngạc nhiên nhìn cô gái, thì cô ta lại hỏi:

- Anh về đã thấy cửa để ngỏ, và Pa-ven không có nhà, phải không anh?

- Phải ! Nhưng tôi muốn biết cô đến tìm Pa-ven có việc gì?

Tô-nhi-a bước lại gần, đưa mắt nhìn chung quanh, rồi nói với A-rơ-chom, giọng bồi hồi:

- Em không biết chắc lắm. Song nếu Pa-ven không có nhà tức là đã bị bắt rồi.

A-rơ-chom giật bắn mình, hốt hoảng:

- Bị bắt vì sao cơ?

Tô-nhi-a nói:

- Ta đi vào trong nhà nói chuyện.

A-rơ-chom im lặng, nghe Tô-nhi-a kể. Khi Tô-nhi- a đã kể tất cả những điều cô biết, A-rơ-chom thất vọng. A-rơ-chom tức bực chửi đổng lên:

- À thật là lũ khốn nạn ! Bọn chó chỉ chực có thế !. .. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao trong nhà bị lục tung lên như thế. Ma quỷ đâu đã dẫn thằng bé vào câu chuyện này... Bây giờ không biết tìm nó ở đâu cho thấy? Còn cô, cô là ai nhỉ?

- Em là con gái ông kiểm lâm Tu-ma-nốp. Em có quen Pa-ven.

- À à - A-rơ-chom kéo dài mãi tiếng "à". - Đây, tôi mang bột mì về cho nó ăn thêm một chút, thế mà bây giờ thì như vậy đấy...

Hai người lặng lẽ nhìn nhau.

Lúc chào A-rơ-chom ra về, Tô-nhi-a dặn khẽ:

- Em về đây. Có lẽ anh sẽ tìm thấy Pa-ven. Chiều nay em sẽ đến, anh cho em biết tin về anh ấy.

A-rơ-chom im lặng gật đầu.

*

Con nhặng gầy còm thức giấc ngủ mùa đông bay vo ve ở góc cửa sổ. Một cô gái nông dân chống tay vào đầu gối, ngồi ở mép chiếc ghế dài đệm đã mòn trơ, mắt cô thờ thẫn nhìn xuống sàn nhà nhớp nháp.

Lão giám binh ngậm bên mép một điếu thuốc lá đang nguệch ngoạc viết kín tờ giấy; dưới hàng chữ "trung úy giám binh thành Sê-pê-tốp-ca" hắn hí hửng ký ngoằn ngoèo, rồi đóng con dấu tên mình. Có tiếng lộp cộp ngoài cửa, hắn ngửng đầu lên.

Xa-lô-mư-ga, tay quấn băng, đứng trước mặt hắn.

Lão giám binh cất tiếng chào:

- Cơn gió lành nào đưa cậu đến đây thế?

- Cậu bảo gió lành à? Một tên ở trung đoàn Bô- gun làm tay tớ gẫy lòi xương ra đây.

Có một người đàn bà ngồi đấy, song Xa-lô-mư-ga chẳng giữ ý gì, văng tục ngay.

- Thế cậu về đây chữa hay sao?

- Có chữa ở bên kia thế giới. Khắp các mặt trận chúng nó uy hiếp quân mình, ngấy đánh nhau quá rồi.

Lão giám binh ngắt lời hắn, hất đầu ra hiệu chỉ người con gái.

- Thôi, chốc nữa ta sẽ nói chuyện.

Xa-lô-mư-ga ngồi phịch xuống ghế đầu và trật mũ ra, đính huy hiệu đinh ba sơn men: quốc trưng của "U-cơ-ren dân quốc".

Hắn bắt đầu nói nhỏ:

- Gô-lúp phái mình về đây. Sắp có một sư đoàn bộ binh về đây trú quân. Có thể sinh ra lắm chuyện, mình phải về trước thu xếp. Có thể là "đầu lĩnh trưởng" sẽ thân hành đến đây, và cùng đi với "đầu lĩnh trưởng" còn có một tay tai to mặt lớn nước ngoài nữa. Vì thế đừng có ai hở mồm gì về vụ "chất tươi" hôm trước mà vạ đấy nhé! Còn cậu thì đang viết gì đấy?

Tên giám binh nhếch miệng chuyển mẩu thuốc lá sang mép kia, đáp lại:

- Tớ vớ được một thằng nhãi con chết rấp. Cậu nhớ thằng cha Giu-khơ-rai chứ, gã lính thủy xúi thợ xe lửa chồm lên với chúng mình ấy mà? Cậu biết không, chúng mình tóm được nó ở ngoài ga đấy.

- Thế rồi thế nào? - Xa-lô-mư-ga nhích lại gần, chăm chú nghe.

- Thế rồi thằng Ô-men-sên-cơ, trưởng đồn nhà ga, là một thằng ngu như bò, đưa thằng cha Giu-khơ- rai sang đây mà chỉ cho một thằng lính giải đi. Vì thế cho nên cái thằng nhãi con đang bị giam bây giờ nó mới đánh tháo được cho thằng kia giữa ban ngày ban mặt. Chúng nó tước súng thằng lính của mình, đấm vỡ quai hàm rồi biến. Thằng Giu-khơ-rai thì mất tích, còn thằng nhãi thì rơi vào tay mình. Hồ sơ đây, đọc mà xem.

Tên giám binh ấn cho Xa-lô-mư-ga một tập giấy.

Thằng này lấy tay trái còn lành lần giở tập hồ sơ xem phớt qua. Xong rồi, hắn nhìn chằm chặp tên giám binh:

- Thế cậu chả moi được ở nó cái gì à?

Tên giám binh bực mình kéo sụp chiếc mũ cát-két tới sát mắt.

- Mình mất năm ngày trời vất vả với nó rồi đấy. Nó một mực: "Tôi không biết gì hết. Tôi không đánh tháo cho ai cả". Thật giống giặc lỏi con. Thằng lính áp giải thì nhận đúng mặt nó rồi, vừa nhìn thấy đã suýt nữa thì đè thằng nhãi ra chịt lấy cổ. Phải giằng nó ra, vì thằng lính đâu bị Ô-men-sên-cơ cho ăn hai mươi lăm roi về tội để tù xổng, nên hắn ấm ức cứ muốn nuốt chửng thằng nhãi. Thôi giữ mãi của nợ ấy cũng chẳng được tích sự gì. Tớ định viết giấy sang bên tham mưu để xin lệnh cho treo cổ.

Xa-lô-mư-ga nhổ nước bọt khinh bỉ.

- Mày lành quá. Phải tay tao thì nó đã phun ra rồi. Mày thật là đồ con nhà thầy tu, hạng mày không biết cách lấy cung. Giám binh gì mà như là thầy dòng ấy! Mày đã nện nó ra trò chưa đã?

Lão giám binh phát cáu:

- Mày nói thế mà cũng nói được. Bỏ cái lối nói mỉa ấy của mày đi. Tao làm giám binh ở đây. Yêu cầu mày đừng chõ vào việc của tao.

Xa-lô-mư-ga thấy tên giám binh sừng sộ thì cười lên ha hả:

- Hà hà! Thôi xin ông thầy dòng non đừng bốc lên thế mà nổ con ngươi, lòi con mắt. Việc của mày thôi mặc xác mày. Bây giờ mày nói cho tao biết đào đâu được hai chai "cay" đây.

Tên giám binh cũng cười làm lành:

- Cái món ấy thì có thể được.

- Còn về thằng nhãi này. - Xa-lô-mư-ga gí ngón tay vào tập giấy. - Cái thằng nhãi này, nếu mày muốn cho nó tong đời thì chớ nói mười sáu tuổi, mà phải tăng lên mười tám. Dễ thôi, vòng lại tí râu con số sáu là được không thì trên chẳng duyệt bản án đâu.

*

Trong nhà pha có ba người bị giam. Một ông cụ già râu ria xồm xoàm, mặc áo bông rách, nằm nghiêng trên bục, hai cẳng gầy đét co quắp lại thảm hại trong chiếc quần vải thô lụng thụng. Cụ bị giam vì tên lính ngụy đóng ở nhà cụ có con ngựa biến đâu mất. Dưới đất, một mụ nạ dòng, mắt ti hí rất gian giảo, cằm nhọn hoắt, vốn lầm nghề nấu rượu. Mụ bị kết tội ăn cắp đồng hồ và các thứ đồ quý khác. Ở một góc dưới khung cửa sổ, Pa-ven ngả đầu trên mũ cát-két nát, nằm gần như bất tỉnh.

Người ta đẩy vào nhà giam một cô gái trùm khăn sặc sỡ kiểu nông dân, hai mắt to sợ sệt.

Cô đứng một lúc, rồi lại ngồi bên mụ đàn bà nấu rượu. Mụ ta đưa mắt xét nét cô từng li từng tí, rồi hỏi liến thoắng:

- Cô bé kia cũng vào khám đấy à?

Không có tiếng đáp lại. Mụ ta vẫn không chịu thôi:

- Sao bị tóm thế? Có phải bị bắt vì nấu rượu lậu không?

Cô gái nông dân đứng dậy, nhìn mụ già khó chịu ấy khẽ đáp lại:

- Không. Tôi bị bắt vì anh tôi.

Mụ kia cứ hỏi gặng:

- Thế ông anh làm sao?

Ông cụ già phải chen vào:

- Cái nhà mụ kia, thói đâu cứ làm tội người ta như thế? Lòng người ta đang như tan nát, mà mụ cứ lắm điều, hỏi ra rả.

Mụ kia phát cáu, quay phắt lại phía bục:

- Ai khiến ông lên mặt dạy đời thế hả ông lão kia? Tôi có nói với ông đâu mà ông chen vào?

Ông lão bực mình nhổ nước bọt.

- Lão cứ nói đấy. Mụ phải để cho người ta yên chứ !

Trong nhà giam lại im bặt. Cô gái nông dân cởi khăn quàng trải xuống đất nằm, lấy tay gối má. Mụ hàng rượu lấy cơm ra ăn. Ông lão ngồi dậy, buông chân xuống đất và thủng thẳng quấn một điếu thuốc hút. Khói thuốc khét lẹt tỏa khắp nhà giam.

Miệng còn nhồm nhoàm nhai cơm bỏm ba bỏm bẻm, mụ kia càu nhàu:

- Cái nhà ông lão kia, không để cho người ta ăn cơm yên nữa. Khét lên lèn lẹt. Hút gì mà hút lắm thế. Y như cái ống khói !

Ông cụ chẳng vừa, nói lại:

- Mụ sợ gầy đi à? Chẳng mấy chốc rồi cửa kia mụ đi không lọt. Mụ gọi thằng bé kia vào cho nó ăn với, còn hơn là tọng cả vào mồm một mình mình thế.

Mụ kia bực mình cãi lại:

- Tôi bảo nó ăn mà nó có ăn đâu. Còn ông, ông đừng có mở mồm là đụng đến tôi; tôi không ăn của nhà ông đâu mà ông nói.

Người con gái ngoảnh lại phía mụ nấu rượu, hất đầu ra hiệu về phía Pa-ven, hỏi mụ ta:

- Bà có biết sao anh ấy bị bắt không bà?

Mụ kia vớ được người hỏi chuyện, bắt lấy ngay, kể luôn:

- Người tỉnh này đây. Con út mụ nấu bếp Ca-rơ- sa-ghin đấy mà.

Rồi mụ ghé vào tai cô gái thì thào:

- Cậu ấy đánh tháo cho một anh bôn-sê-vích. Anh này trước là lính thủy cũng ở tỉnh này, trọ ở nhà mụ Dô-du-li-kha, ngay cạnh nhà tôi.

Cô gái nông dân bỗng sực nhớ lại những lời lúc nãy của lão giám binh: "Tớ định viết sang tham mưu để xin lệnh cho treo cổ...".

Từng đoàn xe lửa tới tấp chạy đến mắc kẹt với nhau ở nhà ga. Các tiểu đoàn lính từ trên tàu đổ xuống ồn ào, rối loạn. Chuyến tàu bọc sắt có bốn toa kiểu "Da-pô-rô" từ từ bò trên đường sắt. Lính đẩy súng lớn từ trên những toa không mui xuống, kéo ngựa từ trong các toa hàng ra. Bọn kỵ binh thắng ngựa tót lên đi chèn qua đám bộ binh, ra sân ga đứng thành một đội kỵ mã.

Cai, quản nhốn nháo gọi số hiệu đơn vị của chúng.

Nhà ga ồn ào như một tổ ong. Đám đông lộn xộn những người cuống quít ầm ĩ, dần dần sắp thành từng trung đội vuông vắn, rồi dòng người súng ống đó kéo ào ào vào thành phố. Mãi đến tận tối, xe ngựa vẫn kêu lóc cóc trên đường, bộ phận hậu cần của sư đoàn mới đến vẫn tiếp nhau tiến vào thành phố.

Và đi đoạn hậu là đại đội tham mưu, một trăm hai mươi cái mõm gào lên:

Trên phố này có tiếng gìẦm ầm náo động nổi lên?Đấy là đầu lĩnh Pêt-lu-raXuất hiện dưới trời U-cơ-ren...

Pa-ven nhóm lên nhìn qua cửa sổ. Trong nhá nhem cảnh chiều xuống sớm, anh nghe rõ tiếng bánh xe lăn ầm ầm trên đường phố, tiếng chân rầm rập và tiếng hát nhao nhao.

Phía sau có tiếng người dịu dàng nói khẽ:

- Có lẽ quân lính kéo vào thành.

Pa-ven ngoảnh lại.

Người nói là thiếu nữ bị dẫn vào tối qua.

Pa-ven được nghe chuyện cô ta, mụ nấu rượu hỏi gặng mãi làm cô phải nói. Thiếu nữ ấy quê ở một làng cách Sê-pê-tốp-ca bảy dặm. Anh cô - Gơ-rít-cô - vốn là một du kích đỏ, trước kia làm chủ tịch ủy ban dân cày nghèo.

Khi quân ta phải rút lui, Gơ-rít-cô cũng đeo ngay băng đạn súng máy vào người và theo anh em đi. Gia đình anh giờ thì bị chúng nó khủng bố. Nhà chỉ có độc một con ngựa cũng bị chúng dắt đi mất. ông bố bị bắt đem ra tỉnh, bị hành hạ trong xà lim. Tên lý trưởng hội tề, một tay thuộc loại trước kia Gơ-rít-cô đã bắt vào khuôn vào phép, bây giờ được dịp trả thù, chuyên môn cắt nhà anh phải cho hết lũ lính này đến lũ lính khác đóng. Gia đình khốn khổ đến cùng cực. Tối hôm qua tên giám binh đến làng vây ráp, tên lý trưởng dẫn nó đến nhà cô bé, cô lọt vào mắt lão quan tư; sáng sớm nó cho đem cô lên tỉnh lấy cớ "để lấy khẩu cung".

Pa-ven thao thức không ngủ, lòng bồn chồn, mắt không sao nhắm được. Một ý nghĩ duy nhất quay cuồng trong đầu: "Ngày mai rồi sẽ ra sao.. ".

Mình mẩy bị đánh giờ vẫn còn đau ê ẩm. Tên lính giải Giu-khơ-rai thù anh, đánh anh dã man như thú dữ.

Anh cố lắng nghe tiếng rì rầm trò chuyện của hai người đàn bà bên cạnh cho khuây nỗi lòng căm uất.

Cô gái thấp giọng thì thào kể đến chuyện lão quan tư định giở trò. Lão quan tư đã sán đến, nằn nì, dậm dọa. Bị cưỡng lại, hắn đùng đùng nổi giận, hùng hổ dọa: "Mày không chịu, tao cứ nhốt vào hầm nhà pha thì mày đừng có hòng ra khỏi nữa".

Bóng tối tràn vào dần dần ngập hết gian phòng. Đêm đến, một đêm nghẹt thở, tâm tư thao thức giày vò không biết ngày mai rồi sẽ ra sao. Sáu ngày ở đây đối với Pa-ven tưởng chừng như đến hàng tháng rồi. Nằm sàn đất cứng như đá, người lại càng đau nhừ. Trong phòng giam này chỉ còn có ba người: tên quan hai đã thả mụ hàng rượu ra để về lấy chất cay mang hầu chúng. Ông cụ già nằm trên bục gỗ ngủ kỹ, ngáy khỏe như ở nhà vậy. Y như một nhà hiền triết, cụ lúc nào cũng bình thản, đêm nào cũng ngon giấc. Khơ- ri-chi-na - cô gái nông dân - và Pa-ven nằm dưới đất gần như kề bên nhau. Chiều qua, Pa-ven nhìn qua cửa sổ thấy Xéc-gây đứng ỉu xìu hồi lâu trước nhà pha, buồn rầu nhìn lên những cửa sổ trại giam.

"Xéc-gây chắc biết mình bị nhốt ở đây".

Ba ngày nay có người gửi vào cho Pa-ven mấy mẩu bánh mì đen. Ai gửi đến, chúng cũng chẳng cho hay. Đã hai hôm nay, tên giám binh làm Pa-ven hoảng hốt vì những câu tra hỏi xoi mói.

Tra thế nghĩa là thế nào?

Pa-ven chối hết không khai gì cả. Vì sao không khai? Bản thân anh cũng không biết. Anh muốn can đảm, anh muốn mình cũng cứng cỏi như những anh hùng đọc thấy trong sách. Nhưng đến khi chúng bắt anh, dẫn anh đi giữa đêm dày, lúc đi qua cái hình thù lù lù của cối xay chạy bằng hơi nước, có tiếng một thằng lính áp giải nói: "Bẩm trung úy đưa nó đi làm gì nữa, cứ cho một phát vào lưng là xong chuyện". Lúc ấy Pa-ven mới cảm thấy rờn rợn. Phải, mới mười sáu tuổi đầu mà đã phải chết thì khổ thật. Vì khi đã chết rồi thì dù sao cũng là mãi mãi không sống nữa, không bao giờ sống nữa.

Khơ-ri-chi-na cũng nghĩ ngợi. Cô hiểu số phận Pa- ven hơn cả Pa-ven kia. Anh ta chắc còn chưa biết chuyện... chứ cô thì đã nghe chúng nói thế nào rồi.

Ban đêm, Pa-ven không ngủ, cứ day dứt vật mình.

Khơ-ri-chi-na cảm thấy thương anh, ôi, thương không biết bao nhiêu mà kể. Song Khơ-ri-chi-na cũng có nỗi đau đớn của mình, cô không quên được những lời khủng khiếp của lão giám binh:

"Liệu hồn, mai rồi biết tay tao. Không bằng lòng tao, thì tao vứt xuống cho bọn vệ sĩ. Lính Cô-dắc chúng nó không chê mày đâu. Tùy mày chọn đấy".

Lòng Khơ-ri-chi-na nặng trình trịch. Chẳng còn có thể trông ai thương cho phận mình nữa! Có tội tình gì cho cam. Có phải vì cô đâu mà anh Gơ-rít- cô đi theo du kích đỏ? "Ôi? Sao sống ở thế gian này khổ đến thế này!"

Nỗi đau đớn nhoi nhói ứ nghẹn lấy cổ. Thất vọng mênh mông, hãi hùng khủng khiếp, tất cả như chẹt lấy lòng; Khơ-ri-chi-na nức nở khóc.

Tấm thân non trẻ run lên, lo sợ và buồn vô hạn.

Có bóng người động đậy ở góc tường:

- Em làm sao thế?

Khơ- ri-chi-na ngỏ với người bạn ít nói nỗi khổ cùng đường của mình, tiếng nói khẽ, nhưng mang hơi thở nồng nàn. Pa-ven lặng nghe, bàn tay đặt lên đôi bàn tay Khơ-ri-chi-na.

- Bọn quỷ ấy chúng nó sẽ hành hạ em đến chết mất. - Cô gái nghĩ mà khiếp đảm, nuốt nước mắt thì thào: - Em đến bị với chúng nó mất. Sức em không làm gì chúng nó được.

Biết nói gì với người con gái này? Biết nói gì được? Nói không ra lời! Cuộc đời bạn bị dồn đến chỗ cùng đường, đến chỗ ngạt thở.

Hay ngày mai dùng võ lực bênh bạn, không để chúng đem đi, đánh nhau với chúng nó. Chúng nó sẽ đập chết Khơ-ri-chi-na, chém đứt cổ, và như thế là xong đời. Để an ủi người bạn gái đang bị đau khổ giày vò này, Pa-ven chỉ biết lấy tay trìu mến vuốt ve bàn tay bạn. Tiếng khóc nguôi dần.

Chốc chốc, tiếng lính gác ngoài cửa quen miệng hỏi người qua lại: "Ai, đứng lại!" Rồi lại vẫn là canh trường tịch mịch. Ông lão ngủ say như chết. Thời gian vô hình trôi đi chậm chạp. Đôi cánh tay ôm lấy và kéo riết Pa-ven lại gần. Pa-ven không hiểu ra sao.

Đôi môi Khơ-ri-chi-na nóng hổi tha thiết thủ thỉ:

- Anh ơi, anh yêu của em, đằng nào em cũng bị rồi, không thằng quan làm nhục em, thì lũ lính cũng làm nhục em mất. Anh hãy nghe em, anh ơi! Em không muốn trinh bạch của em vào tay đồ chó nhơ bẩn.

- Khơ-ri-chi-na, em nói sao?

Song đôi cánh tay mầm mẫm cứ riết lấy Pa-ven. Khó mà rời cặp môi mọng và nóng bỏng ấy. Lời nói của cô gái giản dị và âu yếm. Pa-ven giờ mới hiểu điều mà bạn muốn cầu xin mình.

Ý thức về hiện tại thốt nhiên mờ đi những hình ảnh ghê rợn: khóa sắt của buồng giam, thằng lính gác có ria đỏ hoe, lão quan tư, những trận đòn dã man, bảy đêm thao thức ngột ngạt, tất cả chìm đắm vào dĩ vãng. Giây phút này chỉ còn đôi môi nóng bỏng và khuôn mặt ướt đầm nước mắt của Khơ-ri-chi-na.

Bỗng nhiên Pa-ven sực nhớ đến Tô-nhi-a.

Anh quên nàng làm sao được? Đối với lòng anh, đôi mắt ấy đẹp xiết bao và yêu dấu xiết bao!

Pa-ven còn đủ sức dứt ra. Anh đứng lên, choáng váng, lảo đảo như người say rượu, hai bàn tay níu lấy song sắt cửa sổ. Tay Khơ-ri-chi-na sờ soạng với lấy anh:

- Anh ơi, thế nào hở anh ơi?

Tiếng gọi mang bao nhiêu đắm đuối ! Pa-ven cúi xuống, nắm rất chặt đôi bàn tay của Khơ-ri-chi-na:

- Anh không thể nào làm thế được, Khơ-ri-chi-na ạ. Anh hiểu em rất tốt.

Pa-ven còn nói nữa, nhưng chính anh cũng không hiểu mình nói gì. Để phá tan cái im lặng đang đè trĩu xuống đó, Pa-ven đứng hẳn dậy, bước lại chỗ ông lão nằm, ngồi xuống mép bục lay ông dậy:

- Cụ có thuốc cho cháu xin điếu.

Trong góc kia, cô gái gục mặt vào khăn trùm đầu, khóc nức nở. Sớm hôm sau, lão giám binh và lính đến bắt Khơ- ri-chi-na đem đi. Đôi mắt to của người con gái ngẩng nhìn Pa-ven vĩnh biệt. Trong đôi mắt đó gửi lại cả niềm trách móc. Khi Khơ-ri-chi-na bị giải đi khỏi, cửa đóng lại, lòng Pa-ven càng thấy nặng nề, bóng tối càng thấy dầy đặc hơn.

Suốt ngày hôm ấy, ông lão không tài nào gợi được Pa-ven nói một tiếng. Bọn lính đổi gác. Tối đến, chúng dẫn thêm một người bị bắt nữa vào. Pa-ven nhận ngay ra Đô-lin-nhích, người thợ mộc ở nhà máy đường. Pa-ven đã gặp anh dạo tháng Hai năm 1917, lúc làn sóng cách mạng xô đến tận Sê-pê-tốp-ca này. Hồi ấy, trong bao cuộc biểu tình mít tinh ầm ĩ, Pa-ven nghe thấy chỉ có một người bôn-sê-vích nói. Người bôn-sê- vích ấy chính là anh Đô-lin-nhích này đây. Anh đã leo lên hàng rào bên đường, đứng ra kêu gọi binh lính. Pa-ven vẫn còn in sâu trong trí nhớ lời kết luận của anh ta hôm ấy: "Các bạn binh lính ! Các bạn hãy cùng đi với những người bôn-sê-vích: họ không bao giở phản lại quyền lợi các bạn!"

Và từ dạo đó đến bây giờ, Pa-ven mới gặp lại người thợ mộc ấy. Người anh trông vạm vỡ, mập mạp, mặc chiếc áo sơ-mi vàng bạc màu, ngoài khoác áo vét-tông đã cũ. Thoạt vào anh đưa mắt chăm chú nhìn quanh phòng giam một lượt.

Ông cụ già suốt ngày ngồi im không có ai nói chuyện, chắc khổ tâm lắm, nên giờ có người bạn mới để tâm sự ông cụ có vẻ thú. Đô-lin-nhích ngồi vào bục với cụ vừa quấn thuốc hút vừa hỏi cặn kẽ mọi chuyện.

Rồi anh ngồi lại gần Pa-ven.

- Còn chú có chuyện gì kể anh nghe với không? Làm sao chú lại bị rơi vào đây?

Nghe Pa-ven trả lời nhát gừng, Đô-lin-nhích biết Pa-ven chưa dám tin mình nên ít nói thế. Nhưng khi đã hiểu Pa-ven bị buộc tội gì rồi, đôi mắt thông minh của người thợ mộc ngạc nhiên chăm chăm nhìn Pa- ven. Anh ngồi sát cạnh Pa-ven:

- Vậy ra chú đã đánh tháo cho Giu-khơ-rai phải không? À, ra thế đấy. Anh cũng không biết là chúng tóm được chú.

Pa-ven sửng sốt, chống tay nhổm dậy:

- Giu-khơ-rai? Giu-khơ-rai nào? Tôi không biết gì hết. Tự nhiên vô cớ cứ gán tội vào cho người ta...

Nhưng Đô-lin-nhích mỉm cười, nhích lại gần, nói nhỏ:

- Thôi chú, với anh chú đừng chối mãi thế. Anh còn biết hơn chú nữa cơ.

Và Đô-lin-nhích nói khẽ hơn để cụ già khỏi nghe thấy :

- Chính anh đưa Giu-khơ-rai đi trốn. Anh ấy giờ thì chắc chu lắm rồi. Giu-khơ-rai đã kể hết chuyện em cho anh nghe.

Suy nghĩ một lát, Đô-lin-nhích nói thêm:

- Còn chú thì chú cứng đấy. Song cứ xét việc chú còn đây thì tài liệu của nó về chú chẳng có quái gì đâu. Có thể nói là cũng chẳng có gì đáng ngại lắm.

Người thợ mộc nói xong, cởi áo vét-tông rải xuống sàn, ngồi lên, dựa lưng vào tường và lại cuốn điếu thuốc nữa.

Những lời vừa rồi của Đô-lin-nhích làm cho Pa- ven đã hiểu: Đô-lin-nhích là người của ta, rõ lắm. Ừ, nếu anh ấy đã đưa Giu-khơ-rai đi trốn thì tức là....

Đến chập tối thì Pa-ven được biết là Đô-lin-nhích bị bắt vì tội tuyên truyền địch vận. Chúng tóm được quả tang anh đang phát truyền đơn của ủy ban cách mạng toàn tỉnh kêu gọi binh lính ngụy đầu hàng và chạy sang hàng ngũ quân đỏ.

Đô-lin-nhích vốn là người thận trọng, nên chỉ kể cho Pa-ven một số chuyện thôi. Anh nghĩ thầm: "Ai mà biết trước được. Nếu cậu bé bị chúng lấy sắt thông nòng súng mà nện cho thì... Cậu ta hãy còn non lắm".

Tối khuya, hai người sủa soạn đi ngủ, Đô-lin-nhích mới tỏ nỗi lo lắng của mình trong một câu chuyện ngắn gọn:

- Pa-ven ạ, tình cảnh chúng mình có thể nói là bi đát lắm đấy, mắc cẳng rồi. Đành phải đợi xem thế nào thôi.

Ngày hôm sau, lại thêm người bị bắt nữa vào: bác thợ cạo Den-xe có hai tai như tai voi, cổ ngẳng, cả tỉnh ai cũng biết mặt. Bác ta hoa tay múa chân nóng nảy kể bô bô với Đô-lin-nhích:

- Đây chuyện thế này đây. Lão Phúc, lão Bơ-lup- tanh, lão Tơ-rắc-ten-be định mang lễ vật đến chào mừng đầu lĩnh trưởng. Tôi bảo họ: các ông muốn dâng lễ vật cho người ta thì các ông cứ việc mang. Còn như đưa kiến nghị thì ai thay mặt cả đám dân Do-thái này mà ký vào? Nói các ngài tha lỗi: có đứa đếch nào ký. Bọn họ ký vì họ tính chuyện có lợi cho họ. Phúc có cửa hàng. Tơ-rắc-ten-be có máy xay. Còn tôi thì có gì? Những người nghèo đói khác có gì? Bọn khố rách áo ôm chúng tôi chẳng có cóc khô gì cả. Nhưng, khốn nỗi, tôi chỉ được có cái lưỡi dài mà thôi. Chẳng là ngày hôm nay có một ông đội vào hàng tôi cạo mặt. Ông ta thuộc đạo quân mới kéo vào đây. Tôi hỏi ông ta: "Thưa ông bảo giùm cháu, đầu lĩnh trưởng liệu có biết dân Do-thái ở đây bị càn không ạ? Ngài có tiếp một đoàn đại biểu Do thái lên kêu với ngài không, ông nhỉ?" Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, cái lưỡi tôi đã làm hại tôi bao lần rồi. Bà con thử đoán xem? Tôi cạo cho ông ta, bôi kem xoa phấn đẹp đẽ, tươm tất, dùng toàn thứ thượng hảo hạng. Thế rồi ông ta trả công tôi như thế nào? Ông ta đứng dậy, đáng lẽ trả tiền công cho tôi thì trái lại, ông ta bắt ngay tôi về tội "tuyên truyền chống chính phủ". Và Den-xe nắm tay đấm ngực thình thịch: "Tuyên truyền cái gì chứ? Nào tôi có nói cái gì? Tôi chỉ hỏi một câu thường thôi... Thế mà người ta lại tống tôi vào nhà giam..."

Den-xe tức tối, nắm lấy khuy áo Đô-lin-nhích vặn vặn, lúc thì kéo tay này, lúc kéo tay kia của Đô- lin-nhích.

Đô-lin-nhích không nhịn được cười trước cơn nóng nảy của Den-xe. Khi bác thợ cạo dứt lời, anh nghiêm nét mặt:

- Bác Den-xe này, bác cũng là người hiểu biết đấy, thế mà có lúc bác lại dại dột đến thế được. Bác tưởng đã là lúc mở mồm nói cho sướng lưỡi hay sao. Tôi không có khuyên bác tự dẫn xác vào đây đâu nhớ.

Den-xe nhìn Đô-lin-nhích hiểu ý và phẩy tay thất vọng. Giữa lúc ấy cửa mở; người ta ẩy mụ đàn bà nấu rượu vào. Mụ đang chửi thậm tệ thằng lính Cô-dắc giải mụ:

- Trời đánh thánh vật cả lũ chúng mày với thằng quan nhà chúng mày nữa. Rượu của tao, nó nốc cho cạn, rồi cháy xác nó ra!

Tên lính gác đóng cửa lại, tiếng then cài lách cách.

Mụ hàng rượu ngồi xuống bục. Ông lão nói đùa ngay:

- Sao, mụ lắm điều kia lại vào đấy à? Mời mụ ngồi chơi, làm khách của bà con chúng tôi vậy.

Mụ ta nguýt ông già, vớ lấy gói quần áo, rồi ngồi phệt xuống sàn bên cạnh Đô-lin-nhích.

Chúng lại nhốt mụ, sau khi đã tước của mụ mấy chai "cay".

Bỗng dưng có tiếng động ở ngoài cửa bốt gác; rồi có tiếng ai ra lệnh hách dịch. Những người bị giam đều quay đầu ngó ra cửa.

*

 

Chương kế tiếp