Thép Đã Tôi Thế Đấy

Chương VI (2)

Ở quảng trường, gần cái nhà thờ nhỏ, cao lêu nghêu, có tháp chuông rất cổ, đang diễn ra một trò lạ thường chưa từng có ở thành phố này: bọn ngụy diễu binh. Những đơn vị của sư đoàn bộ binh, súng ống nai nịt từ đầu đến chân, đứng thành đội hình chữ nhật, đều răm rắp trên ba mặt quảng trường.

Ở đằng trước, ba trung đoàn bộ binh đứng theo đội hình ô vuông kéo dài từ cổng nhà thờ đến suốt dọc hàng giậu trường học.

Một đám người họp thành một khối màu xám bẩn, đội mũ sắt trông như quả dưa hấu bổ đôi úp sụp lấy đầu, đứng sắp hàng thẳng, súng cầm tay dựng bên hông, băng đạn cuốn đầy người. Đấy là sư đoàn thiện chiến nhất của nền "Đốc chính". Chúng ăn mặc chững vì lấy ở những kho quần áo của quân đội Nga hoàng cũ. Số quân này hơn một nửa là con nhà cu-lắc, những quân thù ghét chính quyền Xô-viết ra mặt.

Quân phản động Nga trắng ném sư đoàn này vào thị trấn Sê-pê-tốp-ca để bảo vệ đầu mối đường xe lửa có tính chất chiến lược trọng yếu bậc nhất này.

Từ Sê-pê-tốp-ca có đường sắt đi năm ngả. Đối với Pết-lu-ra, mất Sê-pê-tốp-ca tức là mất tất cả. Chính thể "Đốc chính" của chúng thế là chỉ còn mảnh đất tí xíu này. Thủ đô của "Đốc chính" bây giờ phải đóng ở thị trấn Vi-nhít-xa nhỏ bé.

Tên "đầu lĩnh trưởng" đã định thân hành đến duyệt các đơn vị. Quân lính sẵn sàng đón hắn.

Ở hàng cuối, xếp cho khuất mắt vào tận xó quảng trường là trung đoàn lính mới động viên. Đám thanh niên ấy chân không giầy, quần áo tạp nham đủ kiểu, đủ màu; những chàng dân quê ấy bị bọn ngụy sục vào tận làng kéo khỏi ổ nằm hay tóm ngay giữa đường trong những đêm càn bắt lính, chẳng có bụng dạ nào đi đánh nhau cả. Họ nói với nhau:

- Ai dại gì!

Bọn sĩ quan của Pết-lu-ra chỉ đạt được kết quả là áp giải họ vào thành phố, chia ra thành các đại đội và tiểu đoàn, rồi ấn súng vào tay họ.

Nhưng ngay ngày hôm sau một phần ba số đó đã biến mất, số còn lại mỗi ngày một ít đi.

Phát ngay giày cho lớp thanh niên đó thì quá ư là dại, vả lại giày của bọn ngụy có nhiều lắm đâu, nên chúng liền ra lệnh đi lên tập trung phải mang kèm theo cả giầy. Kết quả rất ngộ nghĩnh. Vì những người bị bắt làm lính ấy đào đâu ra giày, ngay mảnh giẻ rách buộc lạt, buộc dây thép đủ dính được lấy chân cũng chẳng có nữa là.

Chúng đành dẫn họ đi chân đất ra tham gia cuộc duyệt binh còn hơn.

Sau bộ binh là đến trung đoàn kỵ binh của Gô- lúp. Bọn này đứng án ngữ giữ đám đông dân phố đang tò mò. Ai cũng muốn xem duyệt binh thế nào. "Đầu lĩnh trưởng" sắp đến nơi rồi. Thành phố này mấy khi có duyệt binh như thế. Cho nên dân phố không ai muốn bỏ qua trò vui không mất tiền này.

Trên những bậc thềm nhà thờ, bọn võ quan, bọn chức tước, hai con gái lão giáo trưởng, một mớ các viên giáo học U-cơ-ren, một nhóm Cô-dắc "tự do", viên thị trưởng người hơi gù lưng, - tóm lại là đám thượng lưu của "xã hội" ở đây. Trong số đó có tên tổng thanh tra bộ binh, mặc quân phục. Chính hắn ta chỉ huy cuộc duyệt binh hôm nay.

Trong nhà thờ, lão cố Vát-xi-li, mặc áo chầu, chuẩn bị làm lễ.

Người ta chuẩn bị đón tiếp Pết-lu-ra long trọng lắm. Có mang cả cờ vàng xanh da trời đến nữa. Lính mới hôm nay phải tuyên thệ trước mặt "đầu lĩnh trưởng".

Tên chỉ huy sư đoàn ngồi trên chiếc xe "Pho" tàng, róc sơn, lòi sắt, chạy về phía nhà ga đón Pết-lu-ra.

Lão tổng thanh tra bộ binh ra hiệu gọi gã quan năm Séc-nhắc mảnh khảnh, có tí râu mép vểnh lên rất điệu:

- Anh lấy một người đi theo. Chạy về đoàn bộ và hậu cần kiểm tra lại. Bố trí cho sạch mắt, cho tươm tất đâu vào đấy. Nếu ở đấy có bọn tù thì sàng lọc lại xem. Bọn lem nhem thì tống cổ ra nhớ.

Séc-nhắc rập chân đứng nghiêm chào, rồi cùng một tên quan ba phi ngựa về đoàn bộ.

Tên thanh tra quay lại vồn vã hỏi đứa con gái lớn lão cố đạo:

- Còn cơm nước thế nào, cô? Chu tất rồi chứ?

- Ngài không lo, có quan giám binh thân đến trông nom rồi ạ. - Con này đáp lời, hai mắt thèm thuồng đắm đuối nhìn tên thanh tra đẹp trai kia.

Bỗng tất cả náo động lên: một tên kỵ binh cúi rạp trên bờm ngựa, phi tới. Hắn vẫy tay và kêu lên:

- Đến rồi !

Tên thanh tra liền hô:

- Đứng vào hàng!

Bọn cai đội chạy về chỗ.

Khi chiếc xe ô-tô "Pho" thở hổn hà hổn hển đỗ bên thềm nhà thờ, nhạc cử bài: Xứ U-cơ-ren vẫn sống mãi.

"Đầu lĩnh trưởng" Pết-lu-ra theo sau tên sư đoàn trưởng; nặng nề bước ra khỏi xe. Y người tầm thước, đầu bướu cắm chắc trên cái cổ đỏ gay, mặc áo Cô-dắc xanh bằng dạ tốt; lưng thắt dây da vàng, giắt khẩu Bơ-rao-ninh nhỏ xíu bên hông đựng trong túi bằng da hươu lộn. Đầu y đội mũ lưỡi trai kiểu "Kê- ren-ski": có mang huy hiệu cái đinh ba sơn men. Trông hình dạng Xi-môn Pết-lu-ra chẳng có tướng nhà binh tí nào.

Vẻ bực tức, y nghe tên thanh tra báo cáo rất ngắn.

Sau đó tên thị trưởng đọc chúc từ.

Pết-lu-ra lơ đãng nghe; qua đầu tên thị trưởng, y nhìn xuống các trung đoàn quân trước mặt sắp thẳng hàng.

Y gật đầu ra hiệu cho tên thanh tra:

- Cho bắt đầu duyệt binh.

Y leo lên một cái bục nhỏ gần cột cờ hò hét với lính mươi phút. Y nói không hùng lắm, không có hứng, vì đi đường mệt. Y nói xong thì rắp theo lệnh chỉ huy, quân lính reo lên: "Vinh quang! Vinh quang!". Y bước xuống và lấy khăn lau trán rồi cùng với tên thanh tra và tên sư đoàn trưởng duyệt các đơn vị.

Khi đi qua những hàng lính mới động viên, y nheo mắt khinh bỉ, cắn môi tỏ vẻ bực mình.

Duyệt binh gần xong, thì đoàn lính mới động viên từng trung đội một, hàng ngũ loạc choạc, đi gần tới cột cờ chỗ lão cố Vát-xi-li tay cầm sách bổn đứng làm phép, bọn lính hôn sách bổn, rồi hôn vào một góc lá cờ. Đang lúc làm lễ thì xảy ra một chuyện bất ngờ.

Một đoàn đại biểu không biết ở đâu mọc ra, len lỏi vào quảng trường, lù lù tới tận chỗ Pết-lu-ra. Đi đầu là lão Bơ-lúp-tanh, lái gỗ giàu sụ, lễ mễ bê lễ vật. Theo sau là lão chủ hiệu tạp hóa Phúc và ba tên lái buôn to khác.

Bơ-lúp-tanh khúm núm cúi rạp lưng dâng lễ vật cho Pết-lu-ra:

- Toàn dân Do-thái chúng tôi kính cẩn chào mừng ngài Quốc trưởng, đội ơn cao dày của ngài và tỏ lòng sùng bái ngài. Kính mong ngài chấp nhận cho tờ chúc từ của chúng tôi.

Tên đội đứng bên nhận lễ vật, Pết-lu-ra liếc qua tờ chúc từ, rồi lẩm bẩm:

- Được

Vừa lúc ấy thì lão Phúc len lên ngay:

- Bẩm tướng công, chúng con cắn cỏ lạy ngài thi ân cho chúng con được làm ăn buôn bán và che chở cho chúng con là người Do-thái khỏi bị những cuộc càn Do-thái - Lão Phúc khó khăn mãi mới dám nói đến tiếng "càn Do-thái" này.

Pết-lu-ra, mặt hầm hầm, cau mày khó chịu.

- Quân đội ta không có càn Do-thái, các người phải biết thế mới được.

Lão Phúc buông thõng tay, tiu nghỉu.

Pết-lu-ra nhún vai bực tức, cáu cái đoàn đại biểu rất chướng này. Y quay phắt lại. Đứng sau y, Gô-lúp đang mím môi cắn râu mép đen sì.

- Đại tá, dân kêu về lính của ông. Ông phải xét xem vì sao dân kêu, và thi hành những biện pháp cần thiết. - Rồi hắn quay lại tên thanh tra ra lệnh: - Bắt đầu cho diễu binh.

Đoàn đại biểu vô phúc có ngờ đâu lại chạm trán Gô-lúp ở đây, bèn vội vàng tìm cách lủi đi.

Lúc bấy giờ, mọi người đi xem đều chú ý vào bọn lính đang sửa soạn diễu binh. Tiếng chỉ huy thét lên cộc lốc.

Gô-lúp vẻ mặt bề ngoài cố trấn tĩnh, đón đầu Bơ- lúp-tanh, nói nhỏ nhưng dằn từng tiếng:

- Xéo ngay đi chỗ khác, đồ ngoại đạo. Xéo ngay không ông cho băm thịt chúng mày làm ba-tê bây giờ.

Nhạc cử một bản hành khúc, và những đơn vị đầu tiên và đầu diễu. Khi đi ngang qua chỗ Pết-lu-ra đứng, chúng hô lên hai tiếng "Vinh quang!" như cái máy, rồi quay rẽ sang các phố bên. Đi đầu các đại đội là bọn cai đội mặc quần áo ka-ki mới, bước ung dung như đi dạo phố, tay ve vẩy chiếc gậy chỉ huy. Đây là lần đầu tiên bọn cai đội cầm gậy, cũng như bọn lính bồng súng, được học lối diễu binh như thế.

Cái đuôi sau rốt là lính mới động viên, đi loạc choạc, không biết bước theo lối nhà binh, vừa đi vừa xô đẩy nhau.

Tiếng chân đất lê trên đường nghe lào xào. Cai đội chạy ngược chạy xuôi để giữ hàng lối, nhưng không tài nào giữ được.

Khi đại đội hai đi qua, một gã đi rìa bên phải, mặc áo sơ-mi vải thô, mải há hốc mồm nhìn "đầu lĩnh trưởng", vấp phải ổ gà, ngã sóng soài ra mặt đường. Súng của gã quệt vào đá kêu đến keng một cái. Gã lóp ngóp chực bò dậy, nhưng bị dòng người đi sau hỗn loạn kéo tràn qua đạp gã ta lại ngã giúi ngay xuống nữa.

Người đứng xem thấy thế cười bò ra. Cả trung đội của gã ta rối tung. Đám lính còn lại đi sau tán loạn. Gã thanh niên rủi ro kia nhặt súng đứng dậy chạy vội theo đội mình.

Pết-lu-ra thấy cảnh tượng chán chường ấy, quay mặt đi không buồn nhìn nữa. Y không chờ cho hàng quân đi diễu hết bỏ đi ra xe ô-tô. Tên thanh tra chạy theo sau khúm núm hỏi:

- Đức đầu lĩnh trưởng, ngài không ở lại xơi cơm ạ?

Pết-lu-ra thốt ra tiếng gọn lỏn:

- Không.

Trong số những người trèo lên hàng giậu sắt cao nhà thờ đứng xem diễu binh có Xéc-gây, Va-li-a và Cơ-lim-ca.

Xéc-gây tay bíu chắc lấy cột giậu, đôi mắt hằn học nhìn bọn đứng ở dưới thềm.

- Va-li-a ơi, ta đi về thôi! Hạ màn đến nơi rồi.

Xéc-gây tay buông song sắt tụt xuống, giọng khiêu khích, nói rất to. Những người đứng xem nghe câu nói, kinh ngạc ngoái cổ lại nhìn.

Xéc-gây thản nhiên, không để ý đến ai, cứ đi thẳng ra cửa. Em gái anh và Cơ-lim-ca đi theo sau.

*

Quan năm Séc-nhắc và một quan ba đi theo phi ngựa đến đồn giám binh, nhảy phắt xuống. Chúng đưa ngựa cho tên lính hầu, rồi hộc tốc đi vào trại vệ sĩ. Séc-nhắc giọng hách dịch hỏi tên lính gác:

- Đồn trưởng đâu?

Tên lính ấp úng:

- Con không biết, ông đồn đi đâu rồi ấy ạ.

Séc-nhắc đưa mắt nhìn một vòng gian phòng gác lộn xộn, bẩn thỉu, nhìn những giường, chăn đệm xộc xệch, trên có mấy tên lính Cô-dắc phất phơ nằm chỏng gọng. Có cấp trên vào mà bọn chúng cũng không thèm đứng dậy nữa.

Séc-nhắc thét lên:

- Sao bẩn như chuồng bò thế này? - Hắn la bọn lính đang nằm: - Bọn bay nằm đấy làm gì như đàn lợn xề mới đẻ xong thế?

Một tên lính Cô-dắc ngồi nhổm dậy, ợ một cái như người ăn quá no, rồi lè nhè bực tức:

- Làm gì mà thét lên thế? Chúng tôi cũng có mồm biết thét được cả.

Séc-nhắc chồm lên:

- A, mày láo, mày có biết mày nói với ai không? Đồ ngu như bò! Tao là đại tá Séc-nhắc đây. Hiểu chưa? Đồ chó chết ! Đứng dậy ngay lập tức không có roi này ông quất ngay vào lưng bây giờ. - Séc-nhắc nóng tiết lồng lộn lên. - ông hẹn cho chúng mày một phút, chúng mày phải tức khắc vứt ngay những thứ bẩn thỉu này đi, dọn lại giường, rồi ngồi lại cho ra người một tí. Bộ đội gì mà như thế. Chẳng phải lính Cô- dắc nữa, mà thật là một lũ cướp đường.

Séc-nhắc tức giận tới cao độ; đụng phải chậu rác giữa đường, hắn bực quá lấy chân đá ngay.

Tên quan ba cũng phụ họa theo, chửi rủa lung tung, quất roi vun vút vào không khí, đuổi những tên lính đang nằm bò dậy.

- Đức "đầu lĩnh trưởng" đang duyệt binh. Ngài có thể ghé vào đây. Quân bay hoạt lên xem nào, mau lên!

Bọn lính nhận ra câu chuyện trở nên quan trọng, không phải trò đùa, có thể ăn đòn thật vì uy danh Séc-nhắc thì ai mà không biết nữa. Chúng chạy đi dọn dẹp nhốn nháo lên như người phải bỏng.

Công việc bắt đầu chạy hăng.

Tên quan ba đề nghị với Séc-nhắc:

- Bây giờ ta đi xem lại bọn tù. Chẳng hiểu chúng nhốt những ai ở đây! Nhỡ ra đức "đầu lĩnh trưởng" ngài ngó vào, thì lại có chuyện mất.

Séc-nhắc hỏi tên gác:

- Đứa nào cầm chìa khóa? Mở ngay nhà pha xem nào!

Tên quản cơ chạy vội lại, mở cửa.

Lão quan năm vẫn quát ầm ầm:

- Đồn trưởng sao đi đâu mất mặt! Cứ để ta chờ mãi hắn hay sao?

Rồi Séc-nhắc ra lệnh:

- Đi tìm đồn trưởng gọi về đây cho ta. Tập hợp đội vệ sĩ ra sân, sắp thẳng hàng lại...Tại sao súng không có lưỡi lê?

Tên quản phân trần:

- Bẩm quan, chúng con mới đổi đến hôm qua.

Nói rồi, hắn chạy ra cửa, đi tìm đồn trưởng.

Tên quan ba lấy chân ẩy cửa nhà pha. Một vài người ngồi ở sàn đứng nhổm dậy, những người khác vẫn nằm.

Séc-nhắc ra lệnh:

- Mở cửa ra, ở đây tối quá.

Hắn nhìn kỹ từng mặt người bị giam.

- Làm sao mà bị giam?

Hắn quắc mắt hỏi ông cụ già đang ngồi trên bục.

Cụ này đứng dậy, xốc lại cái quần, giọng lắp bắp sợ sệt trả lời ấp úng:

- Bẩm ngài, lão không biết. Lão thấy dẫn đến đây thì ở đây. Ở nhà lão mất con ngựa, lão có tội gì đâu.

Tên quan ba ngắt lời:

- Mất con ngựa của ai?

- Ngựa của quân đội ạ. Các ông quyền đóng ở nhà lão bán nó đi lấy tiền uống rượu và bây giờ lại đổ tội cho lão.

Séc-nhắc liếc mắt rất nhanh, nhìn ông già từ đầu đến chân và nhún vai bực mình:

- Nhặt quần áo, rồi xéo. - Séc-nhắc quát lên thế, rồi quay lại mụ nấu rượu.

Ông lão vẫn chưa tin là chúng tha mình, quay lại phía tên quan ba, chớp chớp cặp mắt lờ đờ hỏi lại:

- Thưa, thế lão được về ạ?

Tên quan ba gật đầu:

- Ừ, bước đi ngay cho rảnh.

Ông lão vội vớ lấy cái túi treo ở bục, rồi lách ra cửa lủi mất.

Séc-nhắc đã hỏi đến mụ nấu rượu:

- Còn mụ kia, sao mụ bị giam ở đây?

Mụ hàng rượu nhai nghiến ngấu cho hết miếng ba-tê, rồi nói huyên thuyên:

- Bẩm quan lớn, thật oan con. Con ở góa. - Các ông ấy đến nhà con uống rượu, rồi bắt giam con.

Séc-nhắc hỏi:

- Tao nghe ra là mụ bán rượu chứ gì?

Mụ ta lấy làm phật ý, kêu ca:

- Sao gọi là bán được ạ? Như ông đồn trưởng đây lấy của con bốn chai, mà không trả xu nào cả. Các ông ấy thế cả, uống rồi quịt. Thế còn gọi là buôn bán sao được nữa ạ.

- Thôi! Ta hiểu rồi? Mụ cút đi đâu thì cút, nhanh lên.

Mụ ta không để lũ quan ngụy phải nhắc lại lệnh của chúng lần thứ hai nữa, vớ lấy cái thúng, cúi lạy cảm ơn rối rít, rồi đi giật lùi ra cửa.

- Đa tạ các quan. Xin trời phật phù hộ các ngài được mạnh khỏe.

Đô-lin-nhích tròn xoe mắt nhìn tấn hài kịch đó.

Không ai trong những người tù ở đây còn hiểu như thế là thế nào. Chỉ rõ một điều: chắc bọn mới đến là chỉ huy cao cấp gì đây nên mới có quyền thả tù như vậy.

Séc-nhắc hỏi đến Đô-lin-nhích:

- Còn tên kia, tại sao mày bị bắt?

Tên quan ba thét lên:

- Đứng dậy! Trước mặt đại tá phải đứng dậy!

Đô-lin-nhích nặng nề, chậm chạp đứng dậy.

Séc-nhắc hỏi lại:

- Tao hỏi mày tại sao bị bắt?

Đô-lin-nhích nhìn bộ râu mép vểnh của tên quan năm đến mấy giây, nhìn cái mặt cạo nhẫn của hắn, rồi nhìn cái mũ lưỡi trai mới kiểu "Kê-ren-ki" có đính huy hiệu sơn men. Bỗng nhiên một ý nghĩ táo bạo thoáng qua trong óc: "May ra có thể ăn tiền đấy?" Và anh nói ra ý nghĩ vừa vụt đến trong đầu:

- Tôi bị bắt vì tội đi chơi sau tám giờ tối.

Toàn thân căng thẳng đến đau đớn, anh chờ đợi.

- Thế đêm hôm đi làm gì?

- Bẩm lúc ấy chưa khuya, mới có mười một giờ thôi ạ.

Miệng nói mà bụng vẫn không tin là thoát được.

Nhưng đầu gối anh run lên khi nghe tiếng quát cộc lốc:

- Cút!

Anh quên khuấy cả chiếc áo vét-tông, cứ thế đi ra cửa.

Lão quan ba đã hỏi sang người khác.

Pa-ven là người cuối cùng. Anh đang ngồi trên sàn, rất đỗi bàng hoàng không hiểu chuyện ra làm sao nữa, cũng không đủ thời giờ để ngẫm nghĩ tại sao chúng lại tha cả Đô-lin-nhích ra được. Không thể nào mà hiểu được. Chúng thả tất cả hay sao. Nhưng sao lại thả Đô-lin-nhích?... Đô-lin-nhích bảo với chúng là bị bắt vì đi chơi khuya... Pa-ven vụt hiểu ra.

Tên quan năm hỏi đến lượt bác thợ cạo Den-xe gầy nhom. Vẫn một câu hỏi đi hỏi lại đó:

- Còn mày, sao bị bắt?

Den-xe mặt tái mét, hồi hộp, hăng máu trả lời:

- Các ông ấy bảo con tuyên truyền, con không hiểu con tuyên truyền cái gì cả.

Séc-nhắc vểnh tai lên nghe:

- Cái gì? Cái gì? Tuyên truyền à? Mày tuyên truyền cái gì?

Den-xe khoa tay không hiểu ý ra sao:

- Con có biết đâu, con chỉ nói người ta lấy chữ ký vào bản đơn kêu của dân Do-thái đưa lên đức "đầu lĩnh trưởng".

Tên quan ba và Séc-nhắc nhích lại gần Den-xe:

- Đơn kêu gì?

- Dạ đơn xin cấm càn Do-thái. Ngài cũng biết ở đây vừa có một cuộc càn ghê người. Dân chúng khiếp đảm.

Séc-nhắc ngắt lời:

- Ta hiểu rồi. Được muốn có đơn kêu chúng tao sẽ thảo đơn kêu cho mày, đồ Do-thái mạt kiếp.

Rồi Séc-nhắc quay lại bảo tên quan ba:

- Giữ quân này cho ta cẩn thận, đem dẫn xa đi, đưa nó về ban tham mưu; ta sẽ nói chuyện thẳng với nó để xem chính đứa nào đầu têu cái việc đơn kêu này.

Den-xe chực nhoi lên cãi, song roi ngựa của tên quan ba đã quất vào lưng:

- Câm mồm, thằng chó chết.

Bác thợ cạo đau nhăn mặt lại, lùi về góc phòng; môi run lên cố nén tiếng khóc nấc ứ lên cổ.

Khi cảnh cuối đó diễn ra thì Pa-ven đã đứng dậy.

Trong nhà giam chỉ còn mình anh và Den-xe.

Séc-nhắc đã đứng trước Pa-ven, giương hai mắt đen hau háu nhìn anh từ đầu đến chân:

- Thằng này, chuyện gì thế?

Tiếng Pa-ven đáp nhanh:

- Con cắt một miếng yên ngựa để làm đế giày.

Tên quan năm không hiểu hỏi lại:

- Yên ngựa nào?

- Có hai ông lính Cô-dắc đóng ở nhà con, con chót dại cắt chiếc yên ngựa cũ để làm đế giày, cho nên các ông lính Cô-dắc bắt con đem đến đây. - Và hăng lên, với hy vọng ngây ngất được trả lại tự do, Pa-ven nói thêm: - Nếu con biết là không được lấy thì...

Lão quan năm nhìn Pa-ven, bĩu môi khinh bỉ:

- Không hiểu lão đồn trưởng giám binh làm cái ngỗng gì? Thật trời mà hiểu được ra làm sao! Bắt giam được những của quý thật? - Rồi hắn quay ra cửa, hét Pa-ven: - Thôi cho mày về nhà và nói với bố mày cho mấy cái phát vào mông đít. Ranh con, xéo!

Pa-ven còn ngỡ là tai mình nghe nhầm và con tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, anh nhặt cái áo vét tông của Đô-lin-nhích bỏ rơi trên sàn, rồi chạy ra cửa. Anh qua phòng gác và theo sau Séc-nhắc đang đi ra, anh vụt qua sân, rồi chạy qua cổng sắt và ra đường cái.

Trong nhà giam chỉ còn lại bác thợ cạo Den-xe đen đủi. Đau buồn tê tái, bác đưa mắt nhìn chung quanh.

Theo bản năng, bác đi mấy bước ra cửa, nhưng một tên lính gác đã vào khép cửa, khóa trái lại và ngồi trên chiếc ghế đẩu chắn ngay đó.

Đứng trên thềm nhà giam, Séc-nhắc rất lấy làm hài lòng, nói với tên quan ba:

- Thật may mà chúng mình ngó đến đây. Mày xem chúng nhét vào đây đủ cóc nhái bỏ đi. Mình phải cho tên đồn trưởng giám binh ngồi tù ít nhất là hai tuần mới được. Thôi, ta đi chứ!

Tên quản đã tập hợp sẵn lính của nó sắp hàng ở cả ngoài sân. Thấy tên quan năm, hắn chạy lại báo cáo:

- Bẩm quan đại tá, doanh trại xếp dọn đã xong đâu vào đấy rồi ạ!

Séc-nhắc cho chân vào bàn đạp, nhảy phắt lên yên ngựa. Còn tên quan ba thì vẫn loay hoay với con ngựa bất kham của nó. Séc-nhắc vừa lần dây cương, vừa bảo tên đội:

- Mày bảo với đồn trưởng giám binh là tao đã thả hết cả lũ chó chết mà hắn thu nhặt bấy lâu nay. Mày nói thêm với hắn là tao sẽ cho hắn ngồi tù hai tuần vì tội để bẩn thỉu ở đây. Còn thằng đang bị nhốt kia thì điệu ngay lập tức sang tham mưu. Chúng bay thì chuẩn bị cho sẵn sàng!

Tên đội đáp lại, tay đưa lên ngang vành mũ:

- Xin tuân lệnh quan đại tá.

Tên quan năm thúc ngựa cùng với tên quan ba phi lại quảng trường, nhưng diễu binh ở đó đã xong từ lâu rồi.

*

Chạy qua được bảy nhà thì Pa-ven dừng lại. Không còn sức mà chạy tiếp nữa.

Những ngày đói khát bị giam trong phòng ngột ngạt làm Pa-ven kiệt sức. Về nhà thì không được. Đến nhà Bơ-ru-giắc thì nhỡ ra có ai biết là có thể làm liên lụy, tan cửa nát nhà bạn. Vậy thì đi đâu bây giờ?

Anh không biết làm thế nào, cứ chạy, những vườn rau và sân sau các nhà đã lùi lại sau anh. Mãi đến khi chạm người vào hàng rào nhà ai đó, Pa-ven mới sực tỉnh.

Pa-ven đứng sững lại sửng sốt: sau hàng rào cao mà mình đang đứng tựa lưng đây lại chính là vườn nhà ông chánh kiểm lâm. Hóa ra đôi chân mỏi dừ của mình lại đưa mình đến đây. Mình đã định bụng đến đây hay sao ấy nhỉ? Không.

Nhưng tại sao mình lại đứng ngay trước biệt thự này mà không dừng chân đứng lại ở chỗ khác?

Anh không tài nào trả lời được câu hỏi đó. Phải kiếm chỗ nào nghỉ chân cái đã, rồi còn nghĩ cách đi xa nữa. Trong vườn này có một vòm cây rất kín, nấp vào đấy chẳng ai thấy được đâu.

Pa-ven nhảy lên, bám lấy mép một thanh gỗ, trèo lên hàng rào rồi tụt sang bên kia. Anh đưa mắt nhìn mái nhà thấp thoáng sau rặng cây rồi đi thẳng đến vòm cây. Nhưng chỗ vòm cây trống trải quá. Dạo hè còn có nho dại phủ kín, giờ thì cây cối trơ trụi.

Anh định quay ra, nhưng muộn quá rồi: tiếng chó sủa dữ dội ở sau lưng. Một con chó to từ trong nhà đang chạy hồng hộc theo lối đi đầy lá, xồ ra cắn anh, sủa oang cả vườn lên.

Pa-ven đứng thế thủ.

Nó nhảy xổ vào nhưng bị Pa-ven lấy chân đá. Con chó lồng lên chực nhảy vào lần nữa. Thật cũng chẳng biết rồi sẽ ra sao, nếu lúc đó không có tiếng ai quá quen thuộc lanh lảnh la lên:

- Tơ-rê-do, chạy lại đây nào!

Tô-nhi-a chạy ra, cầm lấy vòng xích cổ lôi con chó Tơ-rê-do lại, rồi nói với bóng người đang đứng bên hàng rào:

- Anh làm thế nào mà vào đây được? Con chó này hay cắn lắm đấy. May mà tôi...

Tô-nhi-a chưa nói hết câu đã im bặt, mắt mở to nhìn. Anh chàng trẻ tuổi không rõ làm sao vào đây được này giống Pa-ven quá!

Bóng kia động đậy, khẽ hỏi lại:

- Em... cô không nhận ra tôi sao?

Tô-nhi-a reo lên một tiếng và bổ lại chỗ Pa-ven:

- Anh Pa-vơ-lu-sa, anh đấy ư?

Con chó Tơ-rê-do nghe tiếng chủ kêu tưởng là ra hiệu cho cắn, bèn nhảy xổ lên.

- Không được cắn, đi!

Tơ-rê-do bị Tô-nhi-a đá cho mấy cái, hục hặc cúp đuôi chạy vào trong nhà.

Tô-nhi-a nắm lấy tay Pa-ven hỏi:

- Anh được tha hay sao?

- Thế em cũng biết chuyện à?

Tô-nhi-a không nén được nỗi hồi hộp, cảm động, trả lời câu một:

- Em biết hết, Li-da kể cho em nghe. Nhưng anh làm thế nào ra được? Người ta tha anh hay sao?

Pa-ven trả lời, giọng mệt mỏi:

- Chúng tha nhầm, em ạ. Anh trốn khỏi nhà pha. Chắc bây giờ chúng đang truy nã. Anh cũng không định đến đây. Tình cờ trông thấy vòm cây kia anh tính vào ẩn để nghỉ một lát. - Rồi như để xin lỗi, Pa- ven nói thêm:

- Anh mệt lắm !

Tô-nhi-a nhìn anh một lúc lâu, chan chứa tình thương, trìu mến mặn nồng, vừa lo lắng, vừa vui sướng... Tô-nhi-a siết chặt tay Pa-ven:

- Anh Pa-ven, anh Pa-ven yêu quý, anh Pa-ven thân thiết bé bỏng của em, em yêu anh...anh có hiểu em không? Anh rất bướng của em. Tại sao tối hôm nọ anh lại đùng đùng bỏ về? Giờ anh phải vào nhà em. Em giữ anh lại, không cho anh đi nữa đâu. Anh ở nhà em yên ổn. Anh ở đây đến bao giờ yên thì thôi.

Pa-ven lắc đầu:

- Nhỡ chúng tìm thấy anh ở nhà em thì làm thế nào? Anh không thể vào nhà em được.

Tay Tô-nhi-a càng siết chặt, mi dài rung rung, mắt sáng lên.

- Anh không vào thì chẳng bao giờ anh còn gặp được em nữa. Với lại, anh A-rơ-chom không có nhà, anh ấy đã bị chúng áp giải đi lái xe rồi. Các anh công nhân xe lửa đều bị chúng bắt đi làm cả. Anh tính đi đâu bây giờ mới được?

Pa-ven hiểu thấu lòng Tô-nhi-a lo lắng, nhưng mối lo sợ có thể gieo tai vạ cho người con gái mà anh yêu dấu khiến anh ngần ngại. Bao nhiêu thử thách đã làm anh kiệt sức mệt lả, bụng đói như cào làm Pa- ven không cưỡng lại được nữa: anh nghe theo.

Trong khi Pa-ven ngả lưng ở ghế dài buồng Tô-nhi- a, thì Tô-nhi-a xuống nói chuyện với mẹ ở dưới bếp:

- Mợ ơi, trên buồng con có anh Pa-ven Ca-rơ-sa- ghin là học trò con, mợ nhớ ra chứ? Con không dám giấu mợ điều gì. Anh ấy bị bắt vì đánh tháo cho một người lính thủy bôn-sê-vích. Anh ấy vừa trốn ra được, nhưng không có nơi nào ẩn cả.- Giọng Tô-nhi-a bắt đầu run: - Mợ ơi, con xin phép mợ đồng ý để anh ấy ở nhờ nhà ta, con van mợ!

Đôi mắt Tô-nhi-a van lơn nhìn mẹ.

Bà mẹ thì nhìn mắt con như dò xét.

- Được mợ cũng chẳng cấm con. Song con cho cậu ta ở vào đâu mới được?

Tô-nhi-a đỏ mặt, bối rối, hồi hộp trả lời:

- Để anh ấy ở trong buồng con, nghỉ trên ghế dài. Song mợ đừng nói gì với cậu vội, mợ nhớ.

Mẹ nhìn thẳng vào mắt con:

- Con bấy lâu nay khóc mãi, thế ra là vì nó đấy?

- Vâng ạ.

- Nhưng nó mới ít tuổi đầu!

Tô-nhi-a nóng ruột, mân mê rứt tay áo sơ-mi đang mặc.

- Vâng, song nếu anh ấy không trốn được thì cũng bị đem bắn như người lớn vậy.

Pa-ven ở trong nhà làm bà mẹ không được yên tâm. Bà lo lắng về chuyện Pa-ven bị bắt, mà Tô-nhi-a thì rõ ràng là cảm mến cậu bé đó rồi và bà cũng lo lắng vì bà hoàn toàn không biết gì về Pa-ven hết.

Còn Tô-nhi-a thì bận tíu tít:

- Phải cho anh ấy tắm, mợ ạ. Bây giờ con lo cho anh ấy tắm ngay. Anh ấy bẩn như người thợ mới ở lò ra... Đã lâu lắm rồi, anh ấy có được tắm rửa gì đâu.

Tô-nhi-a vội vã chạy đi đun nước, sắp quần áo và để khỏi phải nói nhiều với Pa-ven, cô đùng đùng dắt tay anh, dẫn vào buồng tắm.

- Anh phải thay hết quần áo đi. Quần áo anh phải giặt mới được. Anh lấy quần áo kia mà thay.

Và Tô-nhi-a chỉ cái áo lính thủy cổ trắng kẻ dọc, cái quần ống rộng thùng thình đã gấp cẩn thận để trên ghế.

Pa-ven đưa mắt ngạc nhiên nhìn chung quanh.

Tô-nhi-a mỉm cười:

- Đây là quần áo giả trai ngày hội trá hình của em, chắc anh mặc vừa. Thôi em để anh tắm nhớ. Em xuống dọn cơm anh ăn.

Nói rồi đóng sập cửa. Pa-ven chỉ còn biết làm theo lời Tô-nhi-a cởi quần áo ra và nhảy vào chậu tắm.

Một giờ sau, bà mẹ, Tô-nhi-a và Pa-ven ngồi ăn cơm dưới bếp. Đói quá, Pa-ven ăn hết đĩa thứ ba mà không để ý. Mới đầu có mặt bà mẹ Tô-nhi-a, Pa-ven cũng ngượng, nhưng sau thấy bà niềm nở, anh đâm dạn ra.

Cơm xong, cả ba người sang buồng Tô-nhi-a. Mẹ Tô-nhi-a hỏi han Pa-ven, anh kể cho bà nghe những bước gian truân của mình. Nghe xong, mẹ Tô-nhi-a hỏi:

- Thế em định thế nào bây giờ?

Pa-ven suy nghĩ:

- Con định gặp anh A-rơ-chom con, rồi đi khỏi đây.

- Đi đâu?

- Con định đi U-mân hay đi Ki-ép. Con chưa biết đi đâu Nhưng chắc chắn là phải đi khỏi đây mới được.

Pa-ven không tài nào ngờ được số phận mình có thể thay đổi nhanh như thế. Sáng còn bị nhốt ở nhà giam, bây giờ đã ở bên Tô-nhi-a rồi, mặc quần áo mới tinh và cái chính là đã được tự do.

Cuộc đời đôi khi xoay hẳn chiều lại như thế đấy: lúc thì bóng tối mù mịt trùm kín cuộc đời, lúc thì ánh sáng mặt trời lại tươi vui cười với bạn. Nếu không có mối lo bị bắt lại thì lúc này Pa-ven cảm thấy đúng là sung sướng hoàn toàn rồi.

Nhưng chính ngay giữa lúc này, lúc anh đang ở cái nhà rộng rãi và yên tĩnh này, thì chúng có thể bắt lại anh ngay ở đây.

Phải liệu đi, đến đâu cũng được, đừng ở lại đây nữa. Nhưng nào bụng có muốn rời nơi này đâu! Thật là oái oăm ! Lúc đọc truyện vị anh hùng Ga-ri-ban- đi thì mê thật! Cứ mơ ước được như Ga-ri-ban-đi. Tuy biết đời ông ta gian khổ lắm, bị đuổi khắp thế giới, nhưng vẫn thèm cuộc đời đó. Thế mà nếm mùi tra tấn ghê khiếp mới được bảy ngày mà đã thấy dài đằng đẵng như đến cả năm trường rồi.

Xem thế thì ra mình chẳng có tướng anh hùng.

Tô-nhi-a ngả đầu về phía Pa-ven hỏi:

- Anh đang nghĩ gì thế, anh?

Pa-ven có cảm tưởng như đôi mắt của người yêu xanh thăm thẳm vô cùng tận.

- Tô-nhi-a ơi, em có muốn anh kể về Khơ-ri-chi-na cho em nghe không?

Tô-nhi-a đon đả:

- Anh kể đi.

- Và từ hôm ấy, Khơ-ri-chi-na không trở lại nữa.

Đoạn cuối của câu chuyện, Pa-ven khó khăn mãi mới kể nốt được.

Trong phòng tịch mịch, chỉ có tiếng đồng hồ kêu tích tắc đều đều... Tô-nhi-a cúi đầu, cắn chặt môi, cố giữ khỏi bật tiếng khóc.

Pa-ven nhìn người yêu, giọng quả quyết:

- Anh phải đi ngay hôm nay.

- Không, không, hôm nay anh không đi đâu cả.

Những ngón tay thon thon ấm áp của Tô-nhi-a khẽ lần mái tóc cứng của Pa-ven giật tóc anh trìu mến.

- Tô-nhi-a ạ, em phải giúp anh. Cần ra sở đầu máy xe lửa hỏi thăm tin tức anh A-rơ-chom và đưa mảnh giấy anh viết cho Xéc-gây. Anh có khẩu súng ngắn giấu trên tổ quạ. Anh không thể đến lấy được, nên muốn nhờ Xéc-gây đến lấy hộ. Em có giúp được anh không?

Tô-nhi-a đứng dậy:

- Được anh ạ. Em sẽ đi tìm Li-da, cùng với cô ta vào sở đầu máy. Thế anh viết cho Xéc-gây đi, em sẽ đưa đến. Anh ấy ở đâu? Nếu anh ấy muốn đến gặp anh thì nói là anh ở đâu được?

Suy nghĩ một lát, Pa-ven đáp:

- Cứ bảo anh ấy chiều nay mang khẩu súng đến vườn nhà.

Đến khuya, Tô-nhi-a mới về, Pa-ven đã ngủ say. Tay ai vuốt trán làm Pa-ven thức dậy. Tô-nhi-a cười vui sướng:

- Anh A-rơ-chom sắp đến ngay bây giờ. Anh ấy mới đi về. Có ông cụ đẻ ra Li-da bảo đảm, nên anh ấy được phép ra ngoài một tiếng. Đầu máy anh ấy lái còn đỗ trong sở. Em không thể nói được là anh ở đây chỉ bảo anh ấy đến đây, em có việc quan trọng lắm cần nhắn anh ấy. Kia kìa, anh ấy đã đến rồi!

Tô-nhi-a chạy ra cổng. A-rơ-chom thấy Pa-ven còn ngỡ là mắt mình trông nhầm, đứng sững lại ngay trước cửa. A-rơ-chom vào rồi. Tô-nhi-a khép cửa lại để cậu mình bị đau thương hàn nằm ở bên phòng giấy khỏi nghe tiếng.

Tay A-rơ-chom ôm chặt lấy Pa-ven, ghì em vào lòng, làm khớp xương Pa-ven kêu răng rắc:

- Em Páp-ca của anh!

*

Thế là quyết định rồi: mai Pa-ven đi. A-rơ-chom thu xếp cho em ngồi vào đầu máy do bác Bơ-ru-giắc lái đi Ca-da-chin.

A-rơ-chom thường ngày tính khô khan, đã phải nôn nao trong lòng vì lo lắng cho em, không biết số phận em ra sao. Bây giờ thì lòng anh dạt dào vui sướng không sao kể xiết.

- Vậy cứ thế em nhé. Năm giờ sáng mai, anh đón em ở nhà kho vật liệu. Lúc chất củi lên tàu thì em trèo lên ngồi luôn. Anh muốn nói chuyện nữa với em, song đến giờ phải về rồi. Mai anh lại ra tiễn em đi. Bây giờ các anh bị động viên, đang có biên chế thành tiểu đoàn lính thợ xe lửa, làm việc có lính mang súng đi kèm y như dưới thời giặc Đức vậy.

Anh từ giã em ra về.

Bóng tối trùm xuống rất nhanh. Xéc-gây sẽ đến đây bằng lối cổng vào vườn. Pa-ven đi đi lại lại trong phòng tối đợi Xéc-gây đến. Tô-nhi-a và mẹ còn ngồi ở đầu giường cậu Tô-nhi-a.

Pa-ven và Xéc-gây gặp nhau trong tối: hai bạn siết chặt tay nhau. Cả Va-li-a cũng đến. Ba người nói chuyện nhỏ:

- Mình không mang khẩu súng đến cho cậu được. Sân nhà cậu giờ đầy lính ngụy đóng. Xe ngổn ngang. Chúng đốt lửa giữa sân. Thật chẳng làm thế nào leo lên cây có tổ quạ được cả. Không may thế đấy.

Pa-ven nói để bạn yên lòng:

- Thôi cóc cần súng nữa. Có lẽ thế càng hay. Đi đường có súng, nó tóm được thì lại mất đầu. Song khi nào lấy được thì cậu phải cố lấy đi nhé. Thế nào cũng lấy đi đấy.

Va-li-a nhích lại gần:

- Bao giờ anh đi?

- Mai, Va-li-a ạ, vào lúc mờ sáng.

- Nhưng anh làm thế nào trốn ra được, nói cho em nghe với.

Pa-ven thì thầm kể lại qua loa chuyện vừa xảy ra.

Ba người trẻ tuổi chia tay nhau thân thiết quá. Xéc-gây không đùa như mọi khi nữa, lòng bồi hồi cảm động. Giọng Va-li-a nghẹn ngào mãi mới thốt ra:

- Thôi, anh đi khỏe mạnh, anh Pa-ven nhớ. Đừng quên chúng em đấy!

Bóng hai người bạn đi ra chìm ngay vào đêm tối.

Trong nhà lặng lẽ. Chỉ có tiếng đồng hồ buông tiếng tích tắc đều đều không mệt mỏi. Pa-ven cũng như Tô-nhi-a chẳng ai nghĩ gì đến đi ngủ cả: chỉ còn sáu tiếng nữa thôi, hai người đã phải xa nhau, và có thể sẽ không bao giờ được thấy lại mặt nhau nữa. Thời giờ ngắn ngủi thế này, kể lể với nhau làm sao hết được trăm ngàn ý nghĩ và lời nói mà mỗi người mang nặng trong lòng.

Tuổi thiếu niên! Tuổi thiếu niên tươi đẹp biết bao, khi bạn còn chưa biết gì đến khát vọng, mà bạn chỉ mới cảm thấy mơ hồ trong những tiếng đập gấp gấp của trái tim; khi bàn tay của bạn run rẩy, sờ sợ, rụt nhanh lại, vì vô tình chạm vào ngực người bạn gái, khi tình bạn của tuổi niên thiếu còn ngăn được lòng bạn không để đi đến bước cuối của tình cảm. Còn gì trên đời có thể ngọt ngào hơn hai cánh tay người yêu đang quàng lên cổ bạn và cái hôn của ai nồng cháy, như có luồng điện phát ra.

Đây là cái hôn thứ hai từ khi đôi trẻ thân nhau. Ngoài mẹ ra, Pa-ven có được ai âu yếm bao giờ. Trái lại anh bị đòn, bị đánh nhiều. Và vì thế, anh càng cảm thấy hết sức thấm thía sự âu yếm của Tô-nhi-a.

Suốt cả cuộc đời vất vả cay nghiệt, Pa-ven có bao giờ biết trên đời có niềm vui sướng ấy. Người con gái này đây là hạnh phúc lớn trên đường đời anh đi. Anh ngửi mái tóc thơm và tưởng chừng như nhìn thấy mắt người yêu.

- Anh yêu em lắm, Tô-nhi-a ạ. Anh không thể nói hết lòng anh với em được. Anh không biết nói thế nào.

Bao nhiêu ý nghĩ quên hết... Tấm thân mềm mại này chiều anh ngoan ngoãn biết bao nhiêu. Song tình bạn của tuổi thiếu niên vẫn là trên hết!

- Em Tô-nhi-a, bao giờ yên hàn rồi, anh sẽ làm thợ điện. Nếu bấy giờ em vẫn không chê anh, nếu thật em yêu anh, chứ không phải chỉ thích cho vui thì anh sẽ là người chồng tốt của em. Anh sẽ không bao giờ đánh em. Nếu anh mà làm em khổ thì anh sẽ không sống làm gì.

Và sợ ôm nhau mà ngủ quên đi trong lòng nhau, đôi trẻ rời nhau, để mẹ khỏi nghĩ đến điều gì không tốt. Đôi bạn còn hứa với nhau sẽ không bao giờ quên nhau, rồi mới đi ngủ. Lúc ấy đã quá nửa đêm.

Sáng sớm, mẹ Tô-nhi-a đánh thức Pa-ven dậy. Anh nhảy thoắt xuống đất.

Giữa lúc Pa-ven vào phòng tắm lấy áo cũ của mình thay, đi giày và khoác chiếc áo vét-tông của Đô-lin- nhích ra ngoài, thì bà mẹ đánh thức Tô-nhi-a dậy.

Hai người vội vã ra đi trong sương mai ẩm ướt; họ đi về phía nhà ga, vòng vào kho củi. A-rơ-chom đang sốt ruột đợi hai người bên toa than chở đầy củi.

Khói phì lên phủ mờ cả đầu máy lớn. Đầu máy thong thả lại gần.

Bác Bơ-ru-giắc từ trong ca-bin nhìn qua cửa sổ.

Phút biệt ly ngắn ngủi. Pa-ven bíu chắc lấy tay vịn thang xe, trèo bậc sắt lên tàu. Lên rồi, anh quay nhìn lại. Hai bóng thân yêu đứng ở lối chắn ngang đường tàu: thân hình cao lớn của A-rơ-chom và bên cạnh là Tô-nhi-a thon thon, nhỏ bé.

Gió mạnh như giận dữ thổi phần phật vào cổ áo và làm bay ngược mớ tóc bồng màu hạt dẻ của Tô- nhi-a. Tô-nhi-a vẫy tay, không nén được thổn thức. A-rơ-chom liếc nhìn cô bé, thở dài:

"Nhất định hai đứa bé phải lòng nhau rồi. À, tay Pa-ven này, thế mà bảo nó còn bé bỏng".

Khi con tàu đã khuất vào đường ngoặt, A-rơ-chom quay lại phía Tô-nhi-a:

- Từ nay, chúng ta là chỗ thân tình cả.

Và bàn tay bé nhỏ của Tô-nhi-a lọt thỏm trong bàn tay to tướng của A-rơ-chom.

Từ xa vọng lại tiếng ầm ầm của con tàu chạy gấp lên.

Chương kế tiếp